Chuyển đến nội dung chính

Bài đăng

Hiển thị các bài đăng có nhãn Chữa Mụn Nhọt Mẩn Ngứa

CÂY RAU LÀM THUỐC - HOA THIÊN LÝ

Hoa thiên lý, Hoa lý hay Thiên lý - Telosma cordata (Burm.f). Merr., thuộc họ Thiên lý - Asclepiadaceae. Dây leo có thân cành non hơi có lông, có nhựa mủ trắng. Lá hình tim, đầu nhọn, mép lá thường cong lên. Hoa khá to, nhiều, màu vàng lục nhạt, mùi thơm dễ chịu, mọc thành xim dạng tán ở nách lá, có cuống to, hơi có lông, mang nhiều tán rất sít nhau. Quả thuộc loại quả đại. Cây thiên lý được trồng ở các nước Đông dương, Inđônêxia, Malaixia, Thái lan, Trung quốc. Âu châu, người ta đã trồng cây Thiên lý từ năm 1748 để làm cây cảnh và lấy hoa. Tại nước ta, Thiên lý cũng được trồng nhiều trong các vườn gia đình vùng đồng bằng cho leo giàn để lấy bóng mát vào mùa hè, hoa thơm mát dịu, hương ngát về đêm (nên còn có tên là Dạ lan hương).

CÂY RAU LÀM THUỐC - HÀNH TÂY

Hành tây - Allium cepa L., thuộc họ Hành - Alliaceae. Cây thảo sống hai năm, có giò phình to (thường gọi là củ), có kích thước thay đổi, gồm nhiều vẩy thịt tức là các bẹ lá chứa nhiều chất dinh dưỡng. Củ hành có hình dạng tròn đều (hình cầu) hoặc tròn hơi dẹp, hình bầu dục hoặc hình bầu dục dài, thường có mầu vàng hay mầu tím hoặc màu trắng. Thân chính thức nằm ở dưới giò mang nhiều rễ nhỏ. Lá dài, tròn, nhọn, rỗng ở giữa. Hoa hợp thành một tán giả nằm ở đầu một cán hoa hình ống trơn, phình ở giữa. Quả hạch, có màng, 2 góc với 3 ngăn, bên trên có núm nhụy còn tồn tại. Hạt có cánh dày, đen nhạt, ráp. Hành tây có nguồn gốc ôn đới, nhưng sinh trưởng và phát triển củ tốt, dễ đạt năng suất cao, lại yêu cầu nhiệt độ không khí nơi trồng chỉ trong phạm vị 15-25°C, mặc dù nó có thể chịu lạnh giỏi ở nhiệt độ dưới 10°C. Hành tây được trồng bằng hạt. Tốc độ nẩy mầm của hạt biến động trong phạm vi 7-15 ngày, có khi tới 20 ngày nhưng nếu gieo hạt vào những tháng có nhiệt độ cao thì hạt mau nẩy mầm h

CÂY RAU LÀM THUỐC - ĐIỀN ĐIỂN

Điền điển hay Điền thanh đầm lầy, Điền thanh hạt tròn, Điền thanh lưu niên, Muồng rút - Sesbania paludosa (Roxb) Prain, thuộc họ Đậu - Fabaceae. Cây bụi cao 3-4m hay hơn, có thân tròn bóng, màu xanh có sọc tím, phân nhánh nhiều, mang những lá kép lông chim với 30-40 lá chét. Hoa vàng mọc thành chùm, mỗi chùm có 8-10 hoa to. Quả đậu thẳng, thõng xuống, dài 20-30m, chứa nhiễu hạt hình cầu nâu bóng. Điền điển được trồng rất nhiều ở các tỉnh phía Nam đặc biệt ở vùng đồng bằng sông Cửu long và vùng Đồng tháp mười. Từ trước tới nay, bà con thường trồng chủ yếu để lấy thân cây làm củi đun, cành lá làm phân xanh, hoa và hạt làm thức ăn. Cây cũng được trồng từ lâu đời ở một số địa phương phía Bắc nước ta như Hưng yên, Hà nam Ninh bình. Bà con trồng ở ao sâu để lấy phần thân phình to và xốp trắng ngập dưới nước để làm mũ, làm nút chai.

CÂY RAU LÀM THUỐC - ĐẬU XANH

Đậu xanh, Đậu chè hay Đậu tằm - Vigna radiata (L.) Wilczek var. radiata, thuộc họ Đậu - Fabaceae. Cây thảo mọc đứng, cao cỡ 5cm. Lá có 3 lá chét, có lông ở cả hai mặt. Chùm hoa ở nách lá; hoa màu vàng lục. Quả đậu nhiều, hình trụ thẳng, mảnh, có lông, chứa những hạt rất nhỏ hình trụ ngắn, gần hình cầu thường có màu xanh lục. Đậu xanh có nguồn gốc ở châu Á (vùng Viễn đông), ngày nay được trồng ở nhiều nước nhiệt đới thuộc châu Á, châu Phi và châu Mỹ. Ở nước ta, đậu xanh được trồng ở hầu khắp các tỉnh đồng bằng, trung du và miền núi thấp. Có nhiều giống trồng khác nhau.

CÂY RAU LÀM THUỐC - ĐẬU RỒNG

Đậu rồng, Đậu khế hay Đậu vuông - Psophocarpus tetragonolobus (L.) DC., thuộc họ Đậu - Fabaceae. Cây thảo leo, sống nhiều năm, có nhiều củ. Lá có 3 lá chét hình tam giác nhọn. Chùm hoa ở nách lá, mang từ 3-6 hoa màu trắng hoặc tím. Quả đậu màu vàng lục, hình bốn cạnh, có bốn cánh với mép khía răng cưa. Hạt gần hình cầu có màu sắc thay đổi tuỳ theo giống trồng (vàng, trắng, nâu hay đen). Rễ có nhiều nốt sần. Đậu rồng có nguồn gốc ở vùng Papua (Tân Ghinê) ngày nay được trồng nhiều ở các nước Đông nam Á. Ở nước ta, Đậu rồng được trồng phổ biến ở các tỉnh phía Nam, còn ở các tỉnh phía Bắc, chỉ mới trồng ở Vĩnh yên, Phú thọ, Hải phòng, Hà tây, Hoà bình, Hà Nội, Hưng yên. Hiện nay đã thu thập được loại giống Bình minh ở tỉnh Hải hưng cũ phát triển tốt và cho sản lượng hạt cao hơn so với 70 giống nhập nội ở miền Bắc nước ta. Đậu rồng có thể gieo quanh năm ở các tỉnh phía Nam; còn ở phía Bắc, nên gieo trong tháng 6. Sản lượng hạt đạt một tấn trên 1 hecta.

CÂY RAU LÀM THUỐC - ĐAY DẠI

Đay dại, Cây rộp hay Bố dại - Corchorus estazns L. thuộc họ Đay - Tiliaceae. Cây thảo sống hằng năm, phân cành nhiều, màu tía. Lá hình bầu dục nhọn, tròn ở gốc, nhọn ở đỉnh, mép có răng cưa đều, ngắn; lá kèm dài nhọn đầu và khá dai. Cụm hoa mọc ở nách lá, gồm 3 hoa nhỏ màu vàng. Quả nang, hình trụ, có 6-8 cạnh, chứa nhiều hạt. Cây đay dại phân bố ở Ấn độ, Trung quốc, Việt nam, Lào, Campuchia, Philippin, Indonêxia, châu Đại dương và vùng nhiệt đới của châu Phi. Ở nước ta, cây mọc hoang dại phổ biến ở các bãi ven đường, bờ ruộng.

CÂY RAU LÀM THUỐC - CỦ ĐẬU

Củ đậu hay Củ sắn - Pachyrhizus erosus (L.) Urb, thuộc họ Đậu - Fabaceae. Dây leo, có rễ phình thành củ. Lá kép có ba lá chét. Hoa màu tím nhạt mọc thành chùm ở nách lá. Quả có lông. Hạt dẹt. Củ đậu ăn được nhưng hạt lại rất độc. Cành lá dùng làm phân xanh. Củ đậu là loại rau được ưa chuộng từ Bắc chí Nam. Củ đậu ăn tươi mát, có tác dụng giải khát. Dùng xào với thịt, tôm tép, nấu thay rau ăn ngon miệng. Người ta còn dùng Củ đậu kho với thịt, hầm thịt, làm nộm, làm nhân bánh đa nem, lẫn với thịt nạc băm, thịt cua biển, thịt tôm tươi và mộc nhĩ, bún tàu làm nhân bánh xèo (lẫn với tép bạc, thịt ba rọi).

CÂY RAU LÀM THUỐC - CHUỐI

Chuối - Musa spp. thuộc họ Chuối - Musaceae là những toài cây ăn quả được trồng phổ biến ở nước ta. Chuối có thân giả do những bẹ lá dài hình máng bó lấy nhau thành một khối hình trụ. Khi cây Chuối còn non, ta ăn nõn Chuối, chính là nõn thân giả; còn thân thật là phẫn nằm đưới đất mà ta thường gọi là củ Chuối; khi chuối ra buồng, ta mới thấy một cuống của cả cụm hoa từ củ Chuối vọt lên đưa dần buồng Chuối lên cao.

CÂY RAU LÀM THUỐC - CHÙM NGÂY

Chùm ngây – Moringa oleifera Lam. thuộc họ Chùm ngây - Moringaceae. Cây gỗ nhỏ, cao đến 10m. Lá kép thường 3 lần lông chim, có 6-9 đôi lá chét hình trứng, mọc đối. Hoa trắng, có cuống, hơi giống hoa đậu, mọc thành chuỳ ở nách lá, có lông tơ; lá bắc hình sợi. Quả nang treo, có 3 cạnh, dài 25-30cm, hơi gồ lên ở chỗ có hạt, khía mình dọc: Hạt màu đen, to bằng hạt đậu Hà lan, tròn, có ba cạnh và ba cánh màu trắng, dạng màng.

CÂY RAU LÀM THUỐC - CẢI TRỜI

Với tên Cải trời, người ta thường dùng chỉ 3 loài cây cùng một chi (Blumea subcapitata DC. Blumaea glandulosa DC. và Blumea lacera (Lamnk.) DC) thuộc họ Cúc - Asteraceae. Có người nói loài thường dùng làm thuốc là Blumea lacera. Loài này cùng với loài Blumea glandulosa có lá dùng nấu canh ăn được. Còn có một số loài khác cùng chi như Blumea fistulosa (Roxb.) Kurz và Blumea riparia (Blume) DC. Cũng có lá và ngọn non nấu canh ăn được như các loài trên. Ở đây chỉ nói đến loài Cải trời hay Cỏ hôi, Bù xít - Blumea lacera DC. là loài được nghiên cứu nhiều hơn.

CÂY RAU LÀM THUỐC - CẢI CANH

Cải canh hay Cải bẹ xanh thường gọi là Rau cải - Brassica juncea (L.) Czern. et Coss., thuộc họ Cải - Brassicaceae là loại rau thường được trồng phổ biến để làm rau ăn sống hoặc nấu canh với tép, tôm, cả lóc, thịt lợn nạc... hoặc dùng muối dưa (cũng như Rau cải củ hay lú bú) có thể muối xả hay muối nén nguyên cây. Dưa cải là món ăn rất thông dụng. Nó có thể chế biến ra thành những món ăn khác nhau như dùng ăn ngay chấm với nước thịt kho, cá kho, nước mắm, nấu canh với thịt, với cá, chưng cá, xắt nhuyễn chưng với trứng vịt, hay kho với lòng heo, nước tương, kho với thịt v.v.. Dưa cải có thể muối ăn liền (chọn cây có ngồng, cắt khúc phơi héo rồi muối trong l-2 ngày để ăn) hoặc muối dưa để lâu (phải để nguyên cây rồi phơi héo rồi muối vào khạp để ăn trong 2-3 tháng).

CÂY RAU LÀM THUỐC - CẢI BẮP

Cải bắp, Bắp cải hay Sú - Brassca oleracea L. var. capitata L., thuộc họ Cải – Brassicaceae. Cây mọc khỏe có lá rộng, lượn sóng. Thân to và cứng, mang những vết sẹo của những lá đã rụng. Chùm hoa ở ngọn gồm nhiều hoa có 4 lá đài màu lục và 4 cánh hoa màu vàng. Cải bắp có nguồn gốc từ loài cây cải hoang dại ở các vách đá Đại tây dương. Các quá trình lai, tuyển chọn, xáo trộn di truyền đã làm cho loài cây hoang dại biến đổi thành nhiều thứ: Cải bắp trắng, Cải bắp đỏ, Su hào, Cải hoa (suplơ).

CÂY RAU LÀM THUỐC - CÀ RỐT

Cà rốt (từ chữ Pháp là carotte). - Daucus carota L. ssp, sativus Hayek, thuộc họ Hoa tán - Apiaceae, là một trong những cây hàng đầu về giá trị dính dưỡng trong các loại rau thường dùng. Cà rốt là loại cây thảo sống 2 năm. Lá cắt thành bản hẹp. Hoa tập hợp thành tán kép; trong mỗi tán, hoa ở chính giữa thì không sinh sản và màu tía, còn các hoa khác thì màu trắng hay hồng. Hạt cà rốt có vỏ hoá gỗ và lớp lông cứng che phủ. Cà rốt là một trong những loại rau trồng rộng rãi nhất và lâu đời nhất trên thế giới. Người La mã gọi Ca rốt là nữ hoàng của các loại rau... Cà rốt cũng được trồng nhiều ở nước ta. Hiện nay, các vùng rau của ta đang trồng phổ biến 2 loại Cà rốt: một loại củ có màu đỏ tươi, một loại có màu đỏ ngả sang màu da cam.

CÂY RAU LÀM THUỐC - CÀ CHUA

Cà chua - Lycobersicum esculetum Mill., thuộc họ Cà - Solanaceae. Cây thảo sống theo mùa. Thân tròn, phân nhánh rất nhiều. Lá kép lông chim chia thuỳ. Hoa màu hồng ở nách lá. Quả mọng, hình cầu, có 3 ô, khi chín màu hồng hay màu vàng, trong chứa chất dịch chua ngọt và nhiều hạt dẹp. Cà chua gốc ở Pêru, được nhập trồng vào nhiều xứ nhiệt đới.. Cà chua được đem vào trồng ở nước ta cuối thể kỷ 19 ở các tỉnh đồng bằng Bắc bộ và một số vùng núi cao. Do trồng trọt mà ta đã tạo được nhiều giống trồng. Có giống quả tròn đẹp, đúng như quả hồng (Cà chua hồng), màu sắc đỏ tươi hoặc đỏ thắm, thịt quả dày, ít ngăn; có loại Cà chua có múi (Cà chua múi). Gần đây, ta có nhập trồng các giống Cà chua Ba lan (Cà chua Yên mỹ), Cà chua số 7 (từ giống Cà chua Hung-ga-ri) Cà chua HP5 (từ giống Cà chua Nhật) và Cà chua Đại hồng (từ giống của Trung quốc); các giống này có phẩm chất ngon, có thể dùng ăn và xuất khẩu.

CÂY RAU LÀM THUỐC - BỌ MẨY

Bọ mẩy hay Đắng cay - Clerodendron cyrtophyllum - Tutrcz, thuộc họ Cỏ roi ngựa Verbenaceae. Cây bụi hay cây nhỡ cao khoảng 1,5m, có các cành non mầu xanh, lúc đầu phủ lông, về sau nhẵn; lá mọc đối, hình bầu dục mũi mác hay hình trứng thuôn, dài 6-15cm, rộng 2,5-7cm, chóp nhọn và thường có mũi, gốc tròn hay nhọn; phiến lá thường nguyên, ít khi có răng, gân nổi rõ ở mặt dưới. Hoa màu trắng (ít khi đỏ) họp thành ngù, ở đầu các cành phía ngọn cây; nhị hoa thò ra ngoài và dài gần gấp đôi ống tràng. Quả hạch có đài tồn tại.

CÂY RAU LÀM THUỐC - BÍ ĐAO

Bí đao, Bí phấn hay Bí xanh - Benincasa hispida (Thunb.) Cogn., thuộc họ Bầu bí - Cucurbtaceae. Cây thảo sống một năm, mọc leo dài tới 5m, có nhiều lông dài; lá hình tim xẻ 5 thuỳ chân vịt, tua cuốn thường phân nhánh 3; hơa đơn tính màu vàng, quả thuôn dài, lúc non có lông cứng, khi già có sáp ở mặt ngoài nặng 3-5 kg, màu lục mốc, chứa nhiều hạt dẹp. Bí đao gốc ở Ấn độ, được trồng ở hầu khắp các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới của châu Á và miễn đông châu Đại dương. Ở nước ta, bí đao được trồng phổ biến khắp mọi nơi, nhất là quanh các thành phố, thị xã.

CÂY RAU LÀM THUỐC - BÈO SEN (BÈO TÂY)

Bèo sen hay Bèo tây, Bèo Nhật bản, Lục bình - Eichhormia crassipes (Mart) Solms, thuộc họ Bèo sen - Pomtederiacae. (Cây thân thảo, sống nhiều năm, nổi trên mặt nước hoặc bám nơi đất bùn, mang một chùm rễ dài và rậm ở phía dưới. Kích thước của cây thường thay đổi tuỳ theo môi trường sống có nhiều hay ít chất mùn. Lá mọc thành hình hoa thị, có cuống phình lên thành phao nổi, gân lá hình cung. Cụm hoa hình bông hay chuỳ ở ngọt dài 15 cm hay hơn. Hoa không đều, màu xanh nhạt hay tím. Các lá đài và cánh hoa cùng màu hàn liền với nhau ở gốc; cánh hoa trên có một đốm vàng. Quả nang, nhưng ít khi gặp.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - TOA CĂN BẢN

TOA CĂN BẢN (Trị nhiều bệnh do  Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng sáng lập) ST Tên nguyên phụ liệu Đơn vị Số lượng cho 1 thang 1 Rễ tranh Gam 8 2 Rau má Gam 8 3 Lá muồng trâu Gam 4 4 Cỏ mực Gam 8 5 Cỏ mần trầu Gam 8 6 Ké đầu ngựa Gam 4 7 Cam thảo đất Gam 4 8 Gừng khô Gam 2 9 Củ sả Gam 4 10 Trần bì Gam 4

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA THŨNG ĐỘC, GHẺ LỞ

THŨNG ĐỘC, GHẺ LỞ 30 Bài thuốc Thũng độc 1. Mọi chứng thũng độc - Nhựa thông, bỏ vào nồi đất cô cho đặc, nhỏ vào nước không tan, 4 lạng gỉ đồng 1 đc. Hạt Thầu dầu 2,5 đc 2 vị cùng tán cho nhựa thông vào quấy đều, làm thuốc cao dán chỗ đau. 2. Nhọt sưng không có đầu - Gai bồ kết, đốt, tán. Định hương, Đại hồi, Đại hoàng, Hạt vông đều nhau như chỗ nhọt mới nối mà chưa mưng mủ thì dùng dầu vừng nấu với thuốc trên cho thành cao phết vào. - Xác rắn, đốt ra tro, tán, trộn với mỡ lợn, bôi. 3. Nhọt độc chạy từ chỗ này sang chỗ khác - Củ Sơn thù, Hạt gấc, 2 vị bằng nhau mài với rượu ngon, phết.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - TIÊU ĐỘC - TIÊU VIÊM

TIÊU ĐỘC -  TIÊU VIÊM 6 Bài thuốc 1. Thiết đã tán - Thuốc bột, mỗi gói 1g * Công thức: - Bột Hồng hoa 0,06g - Long não 0,034g - Bột Xạ hương 0,006g - Huyết kiệt 0,39g * Công dụng: Chữa thương tích máu tụ làm cho vết thương mau lành, chống ngất, cho chữa mụn nhọt bị sưng tấy. * Liều dùng: - Trung bình người lớn có thể uống 5-6 gói trong 1 ngày. - Trẻ em tùy tuổi uống 1/5, 1/4, 1/3, 1/2, 2/3 liều người lớn. - Uống xa bữa ăn. - Phụ nữ có thai, đang hành kinh không được uống.