Chuyển đến nội dung chính

Bài đăng

Hiển thị các bài đăng có nhãn Thông Tiểu Tiện và Thông Mật

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU DỀN CANH

Rau dền canh, Rau dền tía, Rau dền đỏ - Amaranthus tricolor L., thuộc họ Rau dền - Amaranthaceae. Cây thảo mọc đứng, cao 1m hay hơn, xẻ rãnh. Lá hình thoi hay hình ngọn giáo, thon hẹp ở gốc, nhọn tù, dài 3,5-12cm rộng 2,5-10mm. Hoa thành ngù ở nách lá, hình cầu, các hoa ở phía trên sít nhau hơn và tận cùng thân hay cành bằng một bông gần như liên tục, không có lá mà có các lá bắc và lá đài lởm chởm. Quả hình túi, nhẵn, hình trứng nón, dài 2mm, có các vòi nhụy ở phía trên dài 1mm, quả mở bằng một khe ngang. Hạt hình lăng kính 1mm, màu đen. Rau đền canh có nguồn gốc ở Ấn độ, đã được thuần hoá ở nhiều nước. Ở nước ta, Rau dền canh cũng được trồng ở nhiều nơi. Do trồng trọt mà có nhiều thứ tuỳ theo dạng cây, màu sắc của lá.

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU CHUA ME

Rau chua mẹ, Chua me đất, Chua mẹ đất hoa vàng, Chua me ba chìa - Oxalis corniculata L., thuộc họ Chua me đất - Oxalidaceae. Cây thảo mọc bò sát đất, có thân mảnh, màu đỏ nhạt. Lá có cuống dài mang ba lá chét mỏng hình tim. Hoa mọc thành xim gồm 2-4 hoa mầu vàng. Quả nang mở 5 van, chứa nhiều hạt hình trứng. Chua me đất phân bố rất rộng rãi ở các vùng nhiệt đới trên thế giới. Ở nước ta, nó mọc hoang khắp nơi, thường gặp ở những nơi ẩm, cỏ đủ ánh sáng trong các vườn, ở bờ ruộng và các bãi đất hoang.

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU CHUA LÈ

Rau chua lè, Rau má lá rau muống, Rau má tía, Cây hoa mặt trời - Emilia sonchifolia (L.) DC., thuộc họ Cúc - Asteraceae, là một loài cây thảo mọc hoang, sống hằng năm. Lúc cây còn non, các lá mọc từ gốc không chia thuỳ, hình đàn cầm nom như lá Rau má (cây rau má). Ở cây trưởng thành, các lá phía trên chia thuỳ lông chim, thuỳ tận cùng hình bầu dục - tam giác, có rặng. Các lá phía trên kèm theo cụm hoa, không cuống, có tai ở gốc; những lá này nom như lá Rau muống. Cụm hoa hình đầu, màu hồng hay màu tím khi già nở xoè ra. Quả bế có gai ngắn. Rau chua lè mọc khắp nước ta, trong các bãi cỏ, làm bụi, các bãi đất hoang, trên các bờ ruộng, đường đi.

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU CẦN TÂY

Rau cần tây vốn là một loài cây hoang dại ở các chỗ ẩm ướt mà ong thường đến hút mật hoa, do đó mà có tên khoa học là Apium graveolens L. từ chữ Apis, con ong). Đó là một loài cây thảo thuộc họ Hoa tán cùng với Cà rốt, Rau cần, Thìa là … Cây sống 1-2 năm, có thân mọc đứng cao khoảng 1m, có rãnh dọc. Lá ở gốc có cuống, xẻ ba thuỳ hình tam giác, các lá ở giữa và lá ở ngọn không cuống, cũng chia ba thuỳ, xẻ ba, hoặc không chia thuỳ. Hoa trắng hay xanh lục. Người phương Tây đã biết dùng Rau cần tây cách đây 15 thế kỷ. Hippocrate, người cha của nên Y học, đã nói về tác dụng chữa bệnh rối loạn thần kinh của Rau cần tây.

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU CẦN

Rau cần hay Rau cần nước - Oenanthe javanica (Blume) DC, thuộc họ Hoa tán - Apiaceae. Cây thảo sống dai, mọc nằm hay mọc nổi và đứng lên, có rễ dạng sợi. Thân rỗng, có đốt và có khía dọc, dài 30cm tới l00cm. Lá có hình dạng rất thay đổi, có cuống, nhưng các lá gốc và lá ngọn giống nhau, chia thùy hình lông chim 1-2 lần với các phiến hình mác hơi có dạng trái xoan hay hình thoi có chóp nhọn và mép nhăn nheo. Cụm hoa gồm những tán kép đối diện với lá, có 5-15 nhánh mang các tán con, mỗi tán con lại chia 10-20 nhánh gần bằng nhau mang những hoa màu trắng. Quả hình trụ thuôn, có 4 cạnh lồi. Rau cần mọc hoang dại ở nơi ẩm ướt và thường được trồng làm rau ăn. Có thể ăn sống, luộc ăn hoặc chế biến thành những thức ăn khác nhau, như xào ngót với các loại cá biển: cá đã làm sạch và ướp kỹ, được đem nấu trong xoong, khi gần chín, người ta mới cho hành, cà chua và rau cần vào cho sôi vài dạo. Ăn chấm với nước mắm nguyên chất.

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU BỢ

Rau bợ, Rau bợ nước, Rau tần hay Cỏ bợ - Marsilea quadrifolia L., thuộc họ Rau bợ - Marsileaceae. Dương xỉ thuỷ sinh, có thân rễ bò dưới đất, chia thành nhiều mấu, mỗi mấu mang rễ và 2 lá có cuống dài. Lá có 4 thuỳ chéo chữ thập. Bào tử quả là cơ quan sinh sản, mọc ở gốc cuống lá. Rau bợ phân bố ở châu Á, châu Âu và châu Mỹ latinh. Ở nước ta, Rau bợ mọc hoang ở ruộng nước nông, dọc bờ ao, bờ mương và các nơi ẩm, chỗ nước cạn không chảy. Người ta hái Rau bợ về làm rau ăn sống, xào, luộc ăn hoặc nấu canh với tôm tép. Cũng thường được hái về làm rau cho lợn.

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU BAO

Rau bao, Rau diếp dại, Diếp trời - Sonchus arvensis L., thuộc họ Cúc - Asteraceae. Cây thảo sống 2 năm. Thân đứng, cao 1m. Lá thuôn nhọn mũi, có răng, có tai ở phần gốc ôm lấy thân. Đầu hoa dạng chuông mọc thành ngù hình tán. Bao chung của đầu hoa gồm nhiều lá bắc hình dải nhọn, có lông cứng, mỗi hoa có đài biến thành mào lông mềm, trắng, tràng có lưỡi ngắn hơn ống 2-4 lần; nhị 5; bầu hình trụ. Quả bế dẹp, thuôn hai đầu, có 5 cạnh.

CÂY RAU LÀM THUỐC - NGÓ SEN

Ngó sen là phần thân rễ hình trụ của cây Sen - Nelumbo nucifera (L.) Gaertn., thuộc họ Sen - Nelumbonaceae. Nó chứa nhiều chất bột (70%) đường đạm, vitamin C, A, B₁, PP và một số chất khác như, asparagin, arginin, trigonellin, tyrosin... và một số ít tanin. Ngó sen được sử dụng làm thực phẩm như một loại rau và làm dược liệu. Về thực phẩm, ngó sen được xem là một loại món ăn sang trọng. Người ta thường dùng ngó sen để nấu canh, xào, làm dưa, làm mứt, nấu chè hoặc chế biến thành ngó sen lát khô, bột ngó sen dùng cho các loại bánh (bánh phồng tôm) và làm bột dinh dưỡng.

CÂY RAU LÀM THUỐC - NGHỆ

Nghệ hay Nghệ vàng - Curcuma longa L. = C. domestica Valet, thuộc họ Gừng - Zingiberaceae. Cây thảo cao khoảng 1m. Thân rễ to, hình củ tròn, có các nhánh hình trụ hay hình thoi, thịt màu vàng da cam. Thân mang lá mọc hằng năm. Lá có cuống dài, hình trái xoan mũi mác, dài 25-45cm, rộng tới 15-l8cm, nhẵn cả hai mặt, màu lục nhạt; cuống lá có bẹ. Hoa hợp thành những bông hình trụ; cánh hoa và cánh môi đều màu vàng, các lá bắc màu lục, những cái ở ngọn màu tím. Quả nang chia 3 ô. Nghệ gốc ở Ấn độ và cũng được trồng nhiều tại nước này cũng như ở nhiều nước thuộc châu Mỹ la tinh, châu Phi, châu Úc, châu Á, châu Âu trong phạm vi vĩ tuyến thứ 40, trên và dưới đường xích đạo. Ở nước ta, Nghệ cũng mọc hoang và được trồng khắp nơi; mỗi gia đình ở nông thôn thường trồng ít nhiều để dùng.

CÂY RAU LÀM THUỐC - NAM SA SÂM

Nam sa sâm, Sa sâm nam hay Xà lách biển - Launaea sarmentosa (Willd.) Sch. - Bip. ex Kuntze (L. pinnatifida Cass.), thuộc họ Cúc - Asteraceae. Cỏ sống dai có gốc rễ hơi dày lên, thân dài 20-30cm, mảnh, mọc bò, đâm rễ và mang hoa ở các đốt. Lá mọc thành hình hoa thị ở gốc, chia thuỳ lông chim, dài 3-8cm, rộng 5-15mm, thon hẹp dần ở gốc, thuỳ tận cùng hình tam giác lớn hơn, các thuỳ bên hình tam giác, tù, các thuỳ gốc càng xuống cành hẹp dần. Cụm hoa đầu màu vàng, ở gốc cây hoặc ở các đốt, có cuống ngắn, thường mọc đơn độc hoặc thành ngù ít hoa. Quả bế hình trụ, có mào lông dễ rụng.

CÂY RAU LÀM THUỐC - MƯỚP ĐẮNG

Mướp đẳng, Khổ qua, Ổ qua, Lương qua, Mướp mủ - Momordica charantia L., thuộc họ Bầu bí Cucurbitaceae. Cây leo nhờ tua cuốn. Thân có cạnh, ở ngọn có lông dài. Lá mọc so le, phiến lá chia 5-7 thuỳ, mép khía răng cưa, trên gân lá có lông ngắn. Hoa đực và hoa cái mọc riêng lẻ, cánh hoa màu vàng nhạt. Quả hình thoi dài, mặt ngoài có nhiều u lồi; quả non màu vàng xanh, quả chín màu vàng hồng, chứa nhiều hạt dẹp có màng đỏ bao xung quanh. Mướp đắng gốc ở châu Phi, châu Á và đã được thuần hoá ở Ấn độ. Ở nước ta, Mướp đắng được trồng ở khắp nơi trong các nương rẫy và các vườn gia đình. các tỉnh phía Nam, hầu như mọi người đều biết ăn Mướp đắng: Mướp đắng nấu với tôm, thịt lợn nạc, Mướp đắng ninh xương, Mướp đắng hấp với thịt băm, Mướp đắng muối dưa, làm nộm, Mướp đắng xào, Mướp đắng kho, Mướp đắng ăn sống làm món ăn bổ mát, chống viêm nhiệt. Trong quả Mướp đắng có một glycosid đắng gọi là momordicin và các vitamin B₁ , C, các acid amin như adenin, betain v.v... Hạt chứa một chất dầu và một ch

CÂY RAU LÀM THUỐC - MƯỚP

Mướp, mà hai loài quen thuộc là Mướp khía - Luffa acutangula (L.) Roxb., và Mướp ta, Mướp hương - Luffa cylindrica (L.) Roem, đều thuộc họ Bầu bí - Cucurbitaceae. Chúng đều là những cây thảo leo, có lá mọc so le, dạng tim, có 5-7 thuỳ có răng. Hoa đơn tính, các hoa đực thành chùm đạng chuỳ, các hoa cái mọc đơn độc. Quả dài 25-30cm hay hơn, rộng 6-8cm, thuôn hình trụ, khi già thì khô, bên trong có nhiều xơ dai. Loài Mướp khía có lá hơi chia thùy, hoa nhạt mầu hơn, quả có khía (cạnh lồi nhọn). Còn Mướp ta hay Mướp hương có lá chia 5 thuỳ, quả không có khía, không có góc.

CÂY RAU LÀM THUỐC - MẦN TƯỚI

Mần tưới hay Trạch lan - Eupatoriun fortunei Turcz., thuộc họ Cúc - Asteraceae. Cây thảo cao khoảng 1 mét. Thân có lông tơ, có rãnh. Lá mọc đối, hình dải rộng, nhọn dài ở chóp, thon hẹp ngắn ở gốc, dài 7 - 11cm, rộng 17 - 25mm, có răng đều, nhẵn và có nhiều tuyến trên cả 2 mặt; gân lá hình lông chim. Hoa trắng hay hồng xếp thành đầu, các đầu này lại tập hợp thành ngù kép ở ngọn cây; các cuống hoa phủ lông ngắn dầy đặc; các lá bắc tròn tù. Quả bế màu đen đen, có 5 cạnh. Cây mọc hoang dại và cũng thường được trồng, gặp nhiều ở các tỉnh phía Bắc. Nhân dân thường dùng Mần tưới ăn sống, như các loại rau thơm. Cũng dùng lá nấu canh ăn cho mát, giải nhiệt, giải cảm. Lá cũng đùng hãm uống lợi tiêu hoá kích thích ăn ngon miệng và làm thơm.

CÂY RAU LÀM THUỐC - MÃ ĐỀ

Mã đề - Plantago major L., thuộc họ Mã đề - Plantaginaceae. Cây thảo sống dai, có gốc dày, với nhiều rễ phụ dài. Lá mọc thành hình hoa thị ở gốc, hình trái xoan rộng, có răng không đều, dày, dai, có phiến thon lại trên cuống lá; gân 3-7, hình cung. Cuống hoa trần mang về phía đỉnh một bông hoa dài 5-15 cm, có hoa xếp dày đặc. Quả nang thuôn hình, nón, mở theo kiểu hộp. Hạt 8-12, màu nâu đen bóng, hình thoi, vò hạt hoá nhầy khi gặp nước. Cây mã đề phân bố rộng rãi ở châu Âu và châu Á. Ở nước ta, mã đề mọc hoang ở khắp nơi, trên bờ ruộng, bãi cỏ, ven đường, ven khe suối, nơi ẩm ướt và sáng. Cũng thường được trồng làm rau ăn và làm thuốc.

CÂY RAU LÀM THUỐC - LU LU ĐỰC

Lu lu đực, Thù lù đực hay cây Nụ áo - Solanum nigrum L., thuộc họ Cà - Solanaceae. Cây thảo cao 30-100cm, sống hằng năm hay sống dai, có thân phân nhiều cành có góc. Lá nguyên, hình trái xoan, nhọn, thuôn dần thành cuống; phiến hơi phân thuỳ hay có góc. Hoa hợp thành chuỳ dạng tán ở các cành bên; tràng hoa màu trắng hoặc tím tím; cuống hoa dài 1-3cm. Quả mọng, tròn, lúc còn non có màu lục sau chuyển sang mầu vàng hay đỏ và khi chín có màu đen, chứa nhiều hột dẹp. Cây mọc phổ biến trong nhiều vùng nhiệt đới. Ở nước ta, Lu lu đực mọc dại ở các bãi hoang, ruộng khô, ven đường đi khắp nước ta. Ở nhiều nước vùng nóng, các nước châu Phi và đảo Môrixơ, ở Ấn độ, Trung quốc cũng như ở nước ta, người ta dùng các chồi non, cây con ăn như các loại Rau cải; các chồi non dùng trộn với dầu giấm thành món ăn tươi sống vừa bổ, vừa nhuận tràng và lợi tiểu. Quả cũng luộc ăn được.

CÂY RAU LÀM THUỐC - LÁ CHANH

Là lá của cây Chanh. Chanh là loại cây trồng rất phổ biến ở nước ta. Có loại Chanh thường - Citrus aurantifolia (Christm. et Panger) Swingle, có vỏ quả mỏng, và Chanh cốm - Citrus limon (L.) Burm.f, có vỏ quả dày và sần sùi, cũng đều thuộc họ Cam - Rutaceae. Từ trước tới nay, người ra thường trồng Chanh để lấy quả ăn. Nhưng cũng có nhiều nơi, người ra dùng đọt non và lá làm rau gia vị để nấu với nhiều thức ăn cho ngon. Lá chanh thường dùng ăn với thịt gà. Sau khi luộc xong gà, người ta lấy ra, để cho nguội, Đặt gà lên thớt, chặt ra từng miếng, xếp lên đĩa, phía da gà phải bày lên trên, trông mới đẹp. Hái một nắm lá Chanh non, rửa sạch, cắt thật nhuyễn, rải lên đĩa thịt gà. Khi ăn kèm theo một đĩa nhỏ muốt tiêu hoặc muối ớt, có vắt nước chanh.

CÂY RAU LÀM THUỐC - LÁ CÁCH

Là lá của cây Cách. Cách hay Vọng cách - Premna carymbosa (Barm.f.) Rottl. et Willd = Premna integrifolia Roxb., thuộc họ Cỏ roi ngựa - Verbenaceae, thuộc loại cây gỗ nhỏ phân nhánh, có khi mọc leo, thường có gai. Lá mọc đối hình trái xoan hay trái xoan bầu dục, gốc tròn hay hình tim, chóp tù hay có mũi ngắn, dài tới 16cm, rộng tới 12cm, nguyên hoặc hơi khía răng ở phần trên, có ít lông ở dưới, nhất là trên các gân. Hoa nhỏ, mầu trắng lục xám, họp thành ngù ở ngọn cây. Quả hạch, hình trứng, màu đen. Cây Cách mọc hoang dại ở những nơi rậm rạp, trên các liếp vườn. Cũng thường được trồng để lấy lá non làm rau ăn và để làm thuốc.

CÂY RAU LÀM THUỐC - KIỆU

Kiệu -Allium chinense G.Don, thuộc họ Hành - Aliaccae. Cây thảo nhỏ có thân hành màu trắng, hình trái xoan thuôn, bao bởi nhiều vẩy mỏng. Lá mọc ở gốc, hình dải hẹp, nửa hình trụ, dài 15-60 cm, rộng 1,5-4mm. Cụm hoa hình tán trên một cuống hoa dài 15-60cm mang 6-30 tán hoa màu hồng hay màu tím. Kiệu được trồng rộng rãi ở nông thôn để lấy củ muối dưa ăn liền hoặc làm dưa để ăn dần. Muốn có kiệu ăn trong vòng 5-6 ngày, ta mua kiệu về, nhặt sạch rễ, vỏ, rồi ngâm củ kiệu một đêm trong một thau nước muối. Vớt ra rồi lại ngâm vào nước gạo. Sau đó vớt ra xếp củ kiệu vào keo. Nấu giấm có pha đường cát để nguội rồi đổ vào keo dưa. Có người ngâm củ kiệu vào nước phèn chua trong hai giờ rồi lấy ra rửa sạch, để ráo nước, sau đó cho kiệu vào keo, nấu nước muối giấm, đường đổ vào.

CÂY RAU LÀM THUỐC - KHẾ

Khế - Averrhoa carambola L., thuộc họ Chua me - Oxalidaceae. Cây gỗ cao tới 10m. Lá kép lông chim gồm 3 đến 5 đôi lá chét. Cụm hoa ngắn, thanh chùm xim ở kẽ các lá. Hoa màu hồng hay màu tím. Quả to, tiết diện hình ngôi sao năm múi. Khế gốc ở Malaixia, được trồng ở các nước nhiệt đới và cận á nhiệt đới. Khế được trồng ở khắp nước ta và do trồng trọt mà người ta tạo ra nhiều giống trồng (Khế chua, Khế ngọt ...) Khế múi ít chua, có hàm lượng acid oxalic là 1%, và khi chín muồi, là món ăn được nhiều người ưa thích. Người ta thường dùng Khế ăn sống chấm mắm, nấu canh chua với tôm tép và cá. Quả chín có thể chế mứt. Có khi người ta còn xắt lát Khế múi phơi khô để dành vào lúc mưa bão thiếu rau để nấu canh chua hoặc xào với thịt, tôm tép làm món ăn. Người ta đã xác định được trong thành phần của Khế múi, có các chất theo tỷ lệ phần trăm như sau: nước 92,0; protein 0,3; lipid 0,4; glucid 5,7; cellulose l; tro 0,3; có các nguyên tố ví lượng calcium 8mg%; phosphor 15mng%; sắt 0,9; natri 2; và ka

CÂY RAU LÀM THUỐC - HOA THIÊN LÝ

Hoa thiên lý, Hoa lý hay Thiên lý - Telosma cordata (Burm.f). Merr., thuộc họ Thiên lý - Asclepiadaceae. Dây leo có thân cành non hơi có lông, có nhựa mủ trắng. Lá hình tim, đầu nhọn, mép lá thường cong lên. Hoa khá to, nhiều, màu vàng lục nhạt, mùi thơm dễ chịu, mọc thành xim dạng tán ở nách lá, có cuống to, hơi có lông, mang nhiều tán rất sít nhau. Quả thuộc loại quả đại. Cây thiên lý được trồng ở các nước Đông dương, Inđônêxia, Malaixia, Thái lan, Trung quốc. Âu châu, người ta đã trồng cây Thiên lý từ năm 1748 để làm cây cảnh và lấy hoa. Tại nước ta, Thiên lý cũng được trồng nhiều trong các vườn gia đình vùng đồng bằng cho leo giàn để lấy bóng mát vào mùa hè, hoa thơm mát dịu, hương ngát về đêm (nên còn có tên là Dạ lan hương).