Chuyển đến nội dung chính

Bài đăng

Hiển thị các bài đăng có nhãn Thuốc Bổ-Bồi Dưỡng

CÂY RAU LÀM THUỐC - ĐƠN CHÂU CHẤU

Đơn châu chấu, Cuồng, Độc lực, Cẩm giảng hay Rau gai - Aralia armata (Wall.) Seem., thuộc họ Nhân sâm - Araliaceae. Cây nhỏ, thân mảnh, có nhiều gai cong quắp. Lá lớn, kép lông chim 2-3 lần, có lá kèm, gồm 9-11 lá chét, phiến hình trứng, đầu nhọn, gốc tròn, có răng, trên các gân cũng đều có gai nhỏ. Cụm hoa chuỳ gồm nhiều tán dài, cuống hoa có gai quắp, có những gai tơ ở các đốt; hoa rất nhỏ. Quả hạch đen, có 5 cạnh. Do cây có nhiều gai nên mới có tên là Đơn châu chấu. Đơn châu chấu thường mọc trên các nương rẫy cũ có đất còn tốt; cũng thường gặp ở ven bìa rừng ẩm nhiều tỉnh phía Bắc cho đến các tỉnh Tây nguyên.

CÂY RAU LÀM THUỐC - ĐINH LĂNG

Đinh lăng hay Cây gỏi cá - Polyscias fruticosa (L.) Harms, thuộc họ Nhân sâm – Araliaceae. Cây bụi cao 0,80m đến 1,5m hay hơn, nhẵn và không có gai. Lá kép 3 lần lông chim, dài 20-40cm; lá chét có cuống mảnh, dài 5-15mm, dạng màng, có răng không đều, thường bị khía hoặc chia thùy, nhọn, dài 3-10cm, rộng 0,6-4cm. Hoa nhỏ, thành chuỳ tán ngắn, dài 7-18cm. Quả dẹt màu trắng bạc, dài và rộng cỡ 3-4mm, dày 1mm mang các vòi nhụy tồn tại. Cây gốc ở quản đảo Polynêdi, nay được trồng nhiều ở nước ta ở Lào và Campuchia và các vùng nhiệt đới của Cựu lục địa. Cây được trồng trong các vườn gia đình và cả ở các đình chùa, có khi trồng làm hàng rào. Các lá non thường được dùng ăn gỏi cá, gói với nem, làm gia vị ăn với thịt lợn.

CÂY RAU LÀM THUỐC - ĐẬU XANH

Đậu xanh, Đậu chè hay Đậu tằm - Vigna radiata (L.) Wilczek var. radiata, thuộc họ Đậu - Fabaceae. Cây thảo mọc đứng, cao cỡ 5cm. Lá có 3 lá chét, có lông ở cả hai mặt. Chùm hoa ở nách lá; hoa màu vàng lục. Quả đậu nhiều, hình trụ thẳng, mảnh, có lông, chứa những hạt rất nhỏ hình trụ ngắn, gần hình cầu thường có màu xanh lục. Đậu xanh có nguồn gốc ở châu Á (vùng Viễn đông), ngày nay được trồng ở nhiều nước nhiệt đới thuộc châu Á, châu Phi và châu Mỹ. Ở nước ta, đậu xanh được trồng ở hầu khắp các tỉnh đồng bằng, trung du và miền núi thấp. Có nhiều giống trồng khác nhau.

CÂY RAU LÀM THUỐC - ĐẬU VÁN

Đậu ván - Lablab purpureus (L.) Sweet subsp. purpureus thuộc họ Đậu - Fabaceae. Cây leo sống nhiều năm, phân nhánh, cao 3m và hơn nữa. Lá có 3 lá chét không lông ở mặt trên, có ít lông ở mặt dưới. Hoa tím thành chùm thưa ở nách lá. Quả đậu màu tím tía, dài 5-8cm, rộng 2cm, có mỏ ngắn cụp xuống, chứa 3-4 hạt dẹp, nâu tím hay đen. Có giống trồng có hoa màu trắng và hạt có vỏ màu trắng (Đậu ván trắng). Đậu ván đã được trồng từ lâu đời ở nhiều nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ, đặc biệt là ở Ấn độ mà người ta cho rằng đó là quê hương của nó; có người cho là nó có nguồn gốc ở đảo Ăng ti. Do trồng trọt mà người ta tạo ra nhiều giống đậu ván khác nhau. Ở nước ta, đậu ván được trồng rải rác ở hầu khắp các tỉnh đồng bằng, trung du và miền núi thấp. Loại thường trồng là đậu ván leo cho leo giàn hoặc hàng rào quanh nhà.

CÂY RAU LÀM THUỐC - ĐẬU RỰA

Đậu rựa, Đậu mèo, ngồi, Đậu mèo trắng, Đậu dao, Đậu Mỹ - Canavalia ensiformis (L.) DC., thuộc họ Đậu - Fabaceae. Cây sống hằng năm, leo rất cao. Lá kép có 3 lá chét; lá chét có mặt trên màu lục, mặt dưới nhạt, móng, hình trái xoan nhọn. Hoa màu trắng xếp thành chùm ở nách lá. Quả có mép song song, hơi cong, dẹp, có 3 khía lồi. Hạt trắng, xám hay đỏ. Đậu rựa có nguồn gốc ở Ấn độ, ngày nay được trồng ở nhiều nước của châu Á, châu Phi và châu Mỹ. Đậu rựa đã được nhập vào trồng ở nước ta từ lâu tại một số địa phương, đặc biệt là ở Tây nguyên.

CÂY RAU LÀM THUỐC - ĐẬU RỒNG

Đậu rồng, Đậu khế hay Đậu vuông - Psophocarpus tetragonolobus (L.) DC., thuộc họ Đậu - Fabaceae. Cây thảo leo, sống nhiều năm, có nhiều củ. Lá có 3 lá chét hình tam giác nhọn. Chùm hoa ở nách lá, mang từ 3-6 hoa màu trắng hoặc tím. Quả đậu màu vàng lục, hình bốn cạnh, có bốn cánh với mép khía răng cưa. Hạt gần hình cầu có màu sắc thay đổi tuỳ theo giống trồng (vàng, trắng, nâu hay đen). Rễ có nhiều nốt sần. Đậu rồng có nguồn gốc ở vùng Papua (Tân Ghinê) ngày nay được trồng nhiều ở các nước Đông nam Á. Ở nước ta, Đậu rồng được trồng phổ biến ở các tỉnh phía Nam, còn ở các tỉnh phía Bắc, chỉ mới trồng ở Vĩnh yên, Phú thọ, Hải phòng, Hà tây, Hoà bình, Hà Nội, Hưng yên. Hiện nay đã thu thập được loại giống Bình minh ở tỉnh Hải hưng cũ phát triển tốt và cho sản lượng hạt cao hơn so với 70 giống nhập nội ở miền Bắc nước ta. Đậu rồng có thể gieo quanh năm ở các tỉnh phía Nam; còn ở phía Bắc, nên gieo trong tháng 6. Sản lượng hạt đạt một tấn trên 1 hecta.

CÂY RAU LÀM THUỐC - ĐẬU HÀ LAN

Đậu Hà lan hay Đậu Hoà lan - Pisum sativum L., thuộc họ Đậu - Fabaceae. Cây thảo lùn hoặc mọc leo. Lá kép gồm từ 1 đến 3 đôi lá chét; các lá chét đầu cuống thường biến thành tua cuốn. Lá kèm rất lớn. Chùm hoa ở nách lá, hoa to màu trắng hoặc màu xanh, có mỏ nhọn, chứa 5-6 hạt gần hình cầu. Đậu Hà lan có nguồn gốc ở vùng Tây Á hay Âu châu, là một loại đậu cao cấp đã có một lịch sử trồng trọt từ mấy ngàn năm nay và được trồng ở hầu khắp châu Âu, châu Mỹ và nhiều nước châu Á, châu Phi. Ở nước ta, nhiều địa phương ở các tỉnh phía Bắc đều có trồng trong mùa đông, nhất là ở các tỉnh thượng du Bắc bộ. Người ta đã tạo ra nhiều giống đậu Hà lan khác nhau, có giống thân lùn, có giống leo cao 2-3m; có giống trồng để lấy quả non ăn; có giống trồng để ăn hạt và cũng có giống trồng chủ yếu để lấy dây lá làm thức ăn cho gia súc. Thường trồng nhất là loại đậu leo.

CÂY RAU LÀM THUỐC - ĐẬU DẢI

Đậu dải - Vigna unguiculata (L.) Walp. = Vigna sinensis (L.) Savi ex Hassk., thuộc họ Đậu - Fabaceae. Cây thảo leo hoặc bò lan mặt đất, có thân dài tới 2m. Lá có 3 lá chét, lá chét giữa đối xứng hình tim nhọn, hai lá bên không đối xứng. Chùm hoa ở nách lá, mang 3-4 hoa to màu vàng hoặc tím. Quả đậu hình dải, khi chín vỏ tách ra và xoắn lại. Hạt hình thận xếp dọc trong quả. Quả và hạt có kích thước, trọng lượng, màu sắc và thành phần hoá học thay đổi tuỳ theo giống đậu trồng. Đậu dải được trồng rộng rãi ở các vùng nhiệt đới trên thế giới. Ở nước ta, khắp các tỉnh đồng bằng, trung du và miễn núi đều có trồng nhiều giống Đậu dải khác nhau. Hiện đã biết trên 10 giống được trồng từ lâu đời.

CÂY RAU LÀM THUỐC - ĐAY

Đay, Bố đay hay Đạy quả tròn - Corchorus capsularis L. thuộc họ Đay - Tiliaceae. Cây thảo cao l-3m, màu tím nhạt, ít phân nhánh. Lá hình bầu dục nhọn, hẹp ngang, tròn ở gốc, có mũi nhọn ở đỉnh, nhẵn, có răng, dài 6-10cm, rộng 15-30mm; răng nhọn, đều, 2 răng dưới tận cùng bởi một sợi lông dài; gân gốc 1-5. Hoa tập hợp 2-3 cái một ở nách lá, cuống chung và cuống hoa ngắn. Quả hình cầu hay hình quả lê dài 12mm, rộng 10-11mm, có cạnh lồi, mở thành 5 van mang 2 dãy hạt, mỗi dãy 5 hạt dẹp, có góc. Đay có nguồn gốc ở Ấn độ, từ đó được đem trồng ở nhiều nước. Khắp các nước Đông dương đều có trồng. Ở Việt nam cũng như ở nhiều nước, người ta trồng đay chủ yếu để lấy sợi đay, một chất sợi quan trọng mà qua chế biến, sợi và bẹ đay có thể sản xuất ra nhiều loại sản phẩm như: bao tải, thảm, vải dùng may mặc, vải bọc dây điện, dây dẫn lửa, thừng, chão, võng ... Đay đã trở thành một cây công nghiệp quan trọng của nước ta, có giá trị kinh tế cao và là một mặt hàng quan trọng trên thị trường thế giới.

CÂY RAU LÀM THUỐC - DƯA HẤU

Dưa hấu hay Dưa đỏ - Citrullus lanatus (Thunb.) Mansf., thuộc họ Bầu bí - Cucurbitaceae. Dãy leo có nhiều lông, có tua cuốn chẻ 2-3 nhánh. Lá màu xanh nhạt, hình tam giác, có 3-5 thuỳ, các thuỳ này lại chia thành thuỳ nhỏ, có góc tròn. Hoa đơn tính, cùng gốc, to, mầu vàng lục. Quả rất to, hình cầu hoặc hình trứng dài, nhẵn, vỏ ngoài màu lục đen sẫm, nhiều khi có vân dọc màu lục, có thể dài tới hơn 50cm, rộng 30cm; ở những giống trồng, có quả thuôn, nặng tới 10-20kg. Thịt quả có màu thay đổi từ trắng tới đỏ sẫm, mọng nước, vị dịu ngọt ở các giống trồng (còn ở loài điển hình thì có vị đắng); hạt dẹp, màu đen nhánh.

CÂY RAU LÀM THUỐC - CỦ ĐẬU

Củ đậu hay Củ sắn - Pachyrhizus erosus (L.) Urb, thuộc họ Đậu - Fabaceae. Dây leo, có rễ phình thành củ. Lá kép có ba lá chét. Hoa màu tím nhạt mọc thành chùm ở nách lá. Quả có lông. Hạt dẹt. Củ đậu ăn được nhưng hạt lại rất độc. Cành lá dùng làm phân xanh. Củ đậu là loại rau được ưa chuộng từ Bắc chí Nam. Củ đậu ăn tươi mát, có tác dụng giải khát. Dùng xào với thịt, tôm tép, nấu thay rau ăn ngon miệng. Người ta còn dùng Củ đậu kho với thịt, hầm thịt, làm nộm, làm nhân bánh đa nem, lẫn với thịt nạc băm, thịt cua biển, thịt tôm tươi và mộc nhĩ, bún tàu làm nhân bánh xèo (lẫn với tép bạc, thịt ba rọi).

CÂY RAU LÀM THUỐC - CỦ DỀN

Củ dền hay Củ cải đường có nguồn gốc từ loài cây hoang dại vùng bờ biển Địa trung hải và Đại tây dương, được trồng và tạo ra các thứ và các chủng khác nhau có loại lấy củ, có loại làm thức ăn gia súc và có loại dùng lấy đường, chế rượu. Cây Củ dền - Beta vulgaris L. thuộc họ Rau muối - Chenopodiaceae Cây thảo có rễ phồng thành củ nạc, ngọt, màu đỏ thẫm. Thân đứng có vằn, ít phân nhánh. Lá hình trứng, màu lục có mép lượn sóng. Hoa màu lục nhạt, mọc thành bông khá dài. Cây được nhập vào trồng ở nước ta trên vùng đất cát pha tỉnh Ninh bình trước đây nhưng kém phát triển. Ở miền Nam, cây mọc tốt và được trồng nhiều ở Đà lạt (thứ rubra (L.) Moq.).

CÂY RAU LÀM THUỐC - CẢI SOONG

Cải soong, Cải xoong, từ tiếng Pháp là Cresson (Cresson de fontaine, cresson d’eau), có khi đọc là xà lách xoong - Rorippa nasturtium aquaticum (L.) Hayek ex Mansf. = Nasturtium officinale R. Br., thuộc họ Cải - Brassicaceae. Cây thảo sống nhiều năm, có thân bò dài tới 40cm, phân nhiều nhánh, đâm rễ ở các đốt (cả trong đất lẫn trong nước). Lá mọc so le, kép lông chim, có 3-9 lá chét hình trứng không đều, thuỳ tận cùng thường lớn hơn, mép nguyên hay khía tai bèo, màu lục sẫm. Hoa nhỏ, màu trắng, hợp thành chùm ở đầu các cành. Quả cải hình trụ chứa nhiều hạt màu đỏ. Cải soong gốc ở Châu Âu được nhập vào trồng trước tiên ở nước ta vào cuối thế kỷ 19 rồi sau đó lan dần ra phía Bắc và các địa phương khác … Người ta đem trồng ở những nơi có dòng nước chảy (từ những rãnh dưới vòi nước tới đất ẩm, ven các suốt, ven bờ giếng khơi).

CÂY RAU LÀM THUỐC - CÀ RỐT

Cà rốt (từ chữ Pháp là carotte). - Daucus carota L. ssp, sativus Hayek, thuộc họ Hoa tán - Apiaceae, là một trong những cây hàng đầu về giá trị dính dưỡng trong các loại rau thường dùng. Cà rốt là loại cây thảo sống 2 năm. Lá cắt thành bản hẹp. Hoa tập hợp thành tán kép; trong mỗi tán, hoa ở chính giữa thì không sinh sản và màu tía, còn các hoa khác thì màu trắng hay hồng. Hạt cà rốt có vỏ hoá gỗ và lớp lông cứng che phủ. Cà rốt là một trong những loại rau trồng rộng rãi nhất và lâu đời nhất trên thế giới. Người La mã gọi Ca rốt là nữ hoàng của các loại rau... Cà rốt cũng được trồng nhiều ở nước ta. Hiện nay, các vùng rau của ta đang trồng phổ biến 2 loại Cà rốt: một loại củ có màu đỏ tươi, một loại có màu đỏ ngả sang màu da cam.

CÂY RAU LÀM THUỐC - BỐI XÔI

Bối xôi hay Rau nhà chùa - Spinacia oleracea L., thuộc họ Rau muối - Chenobodiaceae. Cây thảo sống hằng năm, khi có họa cao 075m tới 1 mét. Lá nguyên, hình mũi mác có cuống dài, màu lục sẫm. Hoa nhỏ màu lục, xếp thành xim ở nách lá. Quả bế nhẵn hoặc có gai. Bối xôi có nguồn gốc từ một loài rau hoang dại ở vùng Trung Đông, được trồng ở đó từ lâu đời, mà tạo ra loài Bối xôi hiện nay. Bối xôi được nhập vào nước ta, có trồng ở ngoại thành Hà nội, và được trồng nhiều ở Đà lạt, tỉnh Lâm đồng.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA PHẠM PHÒNG

PHẠM PHÒNG 12 Bài thuốc Phạm phòng là do đàn ông đàn bà bệnh chưa khỏi, khí huyết chưa khôi phục mà giao hợp, lửa dục bừng lên mà sinh bệnh, đàn bà phạm phòng phải là âm dịch. Khi phát bệnh, có bạo phát, có trầm phát. Bạo phát thì nặng đầu, cấm khẩu, tay chân co quắp, bừng dưới, mình nóng đau, bí tiểu, hôn mê,... Trầm phát thì hơi thở ngắn, sắc vàng, bụng trên trương lên, ăn uống ít, không trị gấp thì hay chết người.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA LIỆT DƯƠNG

LIỆT DƯƠNG 19 Bài thuốc 1. Ngài tằm 2 lạng (bỏ đầu, chân, cánh) sao khô, tán, luyện mật, viên bằng hạt ngô đồng, mỗi tối uống 1 viên thì dương vật sẽ cương và bền, có thể giao cấu được. 2. Mật cá chép 1 cái, gan gà trống 1 cái, đều sấy khô, tán, luyện với trứng chim sẻ, viên bằng hạt đậu xanh, 1 lần uống 10 viên. 3. Gan gà trống 3 cái, Thỏ ty tử 1 thang, đều sấy khô, tán, luyện với trứng chim sẻ, làm viên bằng hạt đậu xanh, uống 100 viên với rượu khi đói.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DI TINH

DI TINH 6 Bài thuốc 1. Di tinh - Sinh địa 300g - Phục linh 100g - Thỏ ty tử 300g - Đỗ trọng 100g - Xà sàng tử 50g - Nhân sâm 200g - Đại hoàng 10g - Định hương 50g - Quế khâu 50g - Hoài sơn 300g - Hắc táo 200g - Ngưu tất 100g - Hoàng tỉnh 100g - Viễn chí 100g - Câu kỷ 100g - Ba kích 10g - Giấm thanh 10 ml - Mộc hương 100g Tán ra, quết với mật làm viên bằng hạt nhãn, tối uống 1 viên trước khi đi ngủ và sáng khi mới thức dậy.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - RƯỢU BỔ

RƯỢU BỔ 12 Bài thuốc 1. Rượu Ngũ gia bì, chữa nhiều chứng phong thấp, tê bại làm khỏe gân xương, bổ tinh tủy - Ngũ gia bì, rửa bỏ hết gân lá, thái nhỏ, gia Đương qui, Ngưu tất lấy túi đựng, ngâm vào rượu uống 2. Rượu Ý dĩ chữa phong thấp, khỏe tỳ vị, thêm tinh tủy, mạnh gân xương - Bột Ý dĩ nhân tốt đựng vào túi ngâm rượu uống. 3. Rượu Ngưu tất khỏe gân cốt, khỏi tê bại hư tổn, trừ bệnh ngã nước, sốt rét - Ngưu tất thái miếng đựng vào túi. Ngâm rượu mà uống.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - THUỐC BỔ DƯỠNG

BỔ DƯỠNG 69 Bài thuốc Hư lao không phải một chứng riêng biệt, các bệnh lâu không khỏi đều thành hư lao. Hư lao lâu không khỏi thành lao trùng, thì dầu thầy giỏi cũng khó chữa. Đó là nói bệnh đã thành hình rồi mới uống thuốc thì cũng như đợi khát nước mới đào giếng, đợi đến đấu võ mới đúc gươm, thì muộn lắm rồi. Ngày thường ăn uống không chừng mực, ham muốn quá độ, cũng có người bẩm thụ yếu kém, nhân đó mà sinh bệnh nhưng trong hai yếu tố kể trên tổng quát cũng là hư kém cả. Có lúc vì thất tình, lục dâm, ăn uống nhọc mệt, tổn hại khí huyết tinh hao thủy kiệt hỏa bốc nóng bên trong. Ngũ tạng nung nấu giữa tam tiêu làm cho toàn thân khô táo có chút tư nhuận nên sinh ra chứng ngũ tâm phiền nhiệt (nóng ở hai lòng bàn tay, hai lòng bàn chân và dưới vùng tim, cũng gọi là âm hư hỏa bốc), tai điếc, mắt mờ, ho hen, thổ huyết, khạc ra huyết, tiêu ra máu, chảy máu mũi, đổ mồ hôi trộm, di mộng tinh, thần sắc tối tăm, hơi thở đoản, chân tay yếu đuối, tân dịch khô kiệt, ăn uống ngày một kém. Bệnh khô