Chuyển đến nội dung chính

Bài đăng

Hiển thị các bài đăng có nhãn Chữa Cảm Sốt

PHÒNG CHỮA BỆNH NHỜ RAU CỦ QUẢ QUANH TA - CÂY XƯƠNG SÔNG CHỮA TÊ THẤP

* Đặc tính: - Thường gọi là rau xương sông, tên Đông y gọi là hoạt lộc thảo, hà mơ lau, ngoài ra nó còn có tên là ngọc môn tinh và tên khoa học là Bbemeamysiocephala DC. - Cây xương sông mọc hoang ở khe núi, ruộng vườn. Thân cây to bằng ngón tay, cao độ hơn 1m. Lá xương sông dài, đầu ngọn cứng, dầy, xung quanh mép có răng cưa, mặt lá phía trên hơi nhọn, có lông nhỏ, sắc lá xanh lục, mùi lá thơm hăng (mùi dầu hoả). Tháng 3 - 4 có hoa, hoa tự kết đầu mầu vàng nhạt, một cành có nhiều hoa, có nhựa. Tháng 5 - 6 sấy nhẹ đến khô, bảo quản nơi khô ráo, tránh ẩm ướt vì lá dễ mốc, gây sâu bọ.

PHÒNG CHỮA BỆNH NHỜ RAU CỦ QUẢ QUANH TA - CÂY DƯA NÚI LÀM NHUẬN TRÀNG, HẠ SỐT

* Đặc tính: - Cây dưa núi có tên khoa học là Trichosanthes Cueumrina, thuộc họ bí, dây leo mảnh khánh, lá hình tròn, hoa màu trắng, quả hình trái xoan. - Trong hạt cây dưa núi chứa rất nhiều Lipid (80%), quả đắng, mùi hắc thơm. * Công dụng:

PHÒNG CHỮA BỆNH NHỜ RAU CỦ QUẢ QUANH TA - CỦ GỪNG TRỊ BỆNH BẠC TÓC SỚM

* Đặc tính: - Gừng là một loại củ ở dưới đất. được trồng ở nhiều nơi. - Là loại thuốc rất phổ biến với công dụng chữa trị bệnh khá phong phú. Trong củ gừng có 2 - 3% tinh dầu thơm đặc trưng và các chất cay như zingeron, zingerola, shogasla. - Dược liệu có màu vàng nhạt, cay, chống nóng, tính hàn. * Công dụng: Gừng có công dụng khử phong, phát biểu, tán hàn, tiêu đờm, hành thuỷ, giải độc, ấm trung tiêu. Chuyên chữa chứng ngoại cảm, nhức đầu, ngẹt mũi, ho đờm, nôn mửa. Giải độc của bán hạ, nam tinh và độc cua cá, loài chim thú.

PHÒNG CHỮA BỆNH NHỜ RAU CỦ QUẢ QUANH TA - CỦ SẮN DÂY

* Đặc tính: Người ta thường chế biến củ sắn dây thành bột sắn dây màu trắng, vị nhạt. Y học cổ truyền coi đây là vị thuốc mát, có tác dụng giải nhiệt làm ra mồ hôi, ăn uống không tiêu, chữa các chứng sốt nóng, nhức đầu, khát nước, mẩn ngứa, mụn nhọt, kiết lị ra máu. Người lớn và trẻ em dùng đều rất tốt. Liều dùng hàng ngày 10 - 15g bột. * Công dụng:

PHÒNG CHỮA BỆNH NHỜ RAU CỦ QUẢ QUANH TA - RAU KHÚC CHỮA HEN SUYỄN

* Đặc tính: - Rau khúc thuộc họ Cúc (Asteraccae), còn gọi là cây Bỏng Họng, Cúc Thảo. Là loại cây cỏ sống hàng năm, thân đơn hoặc phân nhánh, phủ đầy lông trắng. Lá hình mác hẹp góc thuôn, hai mặt có lông. Hoa cụm gồm hoa cái và hoa lưỡng tính, màu vàng. - Rau khúc được hái vào cuối xuân, đầu hạ trước khi cây ra hoa, bỏ phần rễ đem phơi khô làm dược liệu. - Dược liệu rau khúc có vị ngọt, hơi đắng, tính bình. * Công dụng:

RAU XANH CHỮA BỆNH THÔNG THƯỜNG - CẢM MẠO

Cảm mạo là bệnh thường gặp trong đời sống hàng ngày, nhiều người khi bị cảm không muốn tới bệnh viện khám chữa. Thực ra cảm chỉ là một triệu chứng phần ứng của cơ thể đối với vi khuẩn, vi rút, không hoàn toàn coi là một thứ bệnh. Vì vậy, chỉ cần được nghỉ ngơi, uống nhiều nước, ăn một số loại rau có tác dụng điều trị sẽ nhanh chóng khỏi cảm.

CÂY RAU LÀM THUỐC - TỎI

Tỏi - Allium sativum L., thuộc họ Hành - Alliaceae. Cây thảo nhỏ, cao 25-50cm. Thân thực hình trụ phía dưới mang nhiều rễ phụ, phía trên mang nhiều lá cứng, thẳng, có mép hơi ráp, có rãnh dọc, rộng khoảng 1cm và dài khoảng 15cm. Ở mỗi nách lá phía gốc, có một chỗi nhỏ sau này phát triển thành một tép (ánh) tỏi; các tép tỏi nằm chung trong một cái bao (do các bẹ lá trước tạo ra) tạo thành một củ tỏi tức là thân hành (giò) của tỏi. Hoa ở ngọn thân xếp thành tán… Bao hoa màu trắng hay đỏ đỏ hoặc lục nhạt bao bởi một cái mo dễ rụng tận cùng thành mũi nhọn dài.

CÂY RAU LÀM THUỐC - TÍA TÔ

Tía tô hay Tử tô - Perilla frutescens (L.) Britton, thuộc họ Hoa môi - Lamiaceae. Cây thảo, mọc hằng năm, đứng thẳng, cao tới 1m. Thân vuông, có rãnh dọc và có lông. Lá mọc đối, có cuống dài, phiến lá hình trứng, đầu nhọn, mép khía răng uốn lượn, màu tím hoặc xanh tía, có lông. Hoa trắng hay tím, mọc ở đầu cành hay nách lá thành chùm... Quả bế tư, hạt hình cầu, màu nâu nhạt.

CÂY RAU LÀM THUỐC - SẢ

Sả, Sả chanh hay Cỏ sả - Cymbapogon citratus (DC.) Stapf, thuộc họ Lúa - Poaceae. Có cao khoảng 1,5m, sống lâu năm, mọc thành bụi, phân nhánh nhiều. Thân rễ trắng hoặc hơi tía. Lá dài đến 1m, hẹp, mép hơi ráp; bẹ trắng, rộng. Cụm hoa gồm nhiều bông nhỏ không cuống. Sả là loại cỏ có mùi thơm sớm được phát hiện ở nước ta từ trước thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên. Ngày nay, Sả được trồng rộng rãi ở các vườn gia đình để lấy thân rễ làm gia vị ăn sống, ướp với thịt lợn cho thơm, nấu thịt chó, làm dưa ăn. Lá Sả dùng nấu nước gội đầu và thường dùng phối hợp với các loài cây có tinh dầu khác trong nồi xông giải cảm cổ truyền.

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU RÚT

Rau rút hay Rau nhút - Neptunia oleracea Lour, thuộc họ Đậu - Fabaceae. Cây thảo nổi ngang mặt nước, quanh thân có phao xốp màu trắng. Lá kép lông chim hai lần. Hoa họp thành đầu màu vàng. Quả dẹp, chứa 6 hạt dẹp. Rau rút mọc dưới nước ở mương rãnh, ao hồ. Điều kiện để Rau rút sinh trưởng mạnh là dưới đáy mương phải có sình lầy, nhưng lượng nước trong mương phải sạch. Rau rút dễ nhận vì nó nổi ngang mặt nước, quanh thân có phao xốp màu trắng. Cây có hoa vào mùa mưa.

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU MƯƠNG

Rau mương, Lức hay Cỏ cuốn chiếu - Ludwigia hyssopifolia (G.Don) Exell, thuộc họ Rau dừa nước - Onagraceae. Cây thảo cao 25-50cm, phân nhánh mọc đứng, thân và cành có 4 góc lồi. Lá hình dải mũi mác, thuôn hẹp dài thành cuống, nhọn mũi, dài 4-8cm, rộng 10-15mm. Hoa nhỏ, màu trăng trắng, ở nách lá, không cuống. Quả hình trụ nhẵn, hơi phồng lên ở đỉnh, dài 15-18mm, rộng 2,5mm, chứa nhiều hạt hình bầu dục. Rau mương phân bố ở một số nước châu Á (Trung quốc, Philippin) và châu Mỹ (Brazil).

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU MÙI TÀU

Rau mùi tàu, Rau mùi cần, Mùi tàu, Ngò tây, Ngò tàu, Ngò gai - Eryngium foetidum L., thuộc họ Hoa tán - Apiaceae. Cây thảo sống hằng năm hay vài năm, có thân mọc đứng, phân nhánh ở ngọn, cao 15 - 50cm. Lá mọc sát đất thành hình hoa thị ở gốc, có phiến mỏng, thuôn, hình mũi mác, thon hẹp lại ở gốc, mép có răng cưa, hơi có gai, Lá ở thân càng lên càng ngắn, nhỏ dần, có nhiều răng cưa và gai sắc hơn. Hoa màu trắng lục, mọc thành tán. Quả hình cầu, hơi dẹp, có vẩy. Toàn cây có tinh dầu, nên có mùi thơm như rau mùi.

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU LANG

Rau lang là ngọn lá non của cây Khoai lang - Ipomoea batatas (L.) Poir., thuộc họ Khoai lang - Convolvulaceae. Cây thảo có thân và cành mọc bò dài tới 3m, có nhựa mủ trắng. Một số rễ bên phình lên thành củ chứa nhiều bột và đường. Lá hình tim nhọn có phiến nguyên hay phân thùy. Hoa hình phễu, màu tím hoặc trắng, mọc 1-2 cái ở nách lá. Quả nang chứa 1-2 (hoặc 3-4) hạt bé. Khoai lang phổ biến rất rộng rãi ở các vùng nóng châu Á, châu Mỹ và châu Phi, có thể có nguồn gốc ở Nam Mỹ. Crixtốp Côlông (Christophe Colomb) đã đem về trồng ở Tây ban nha. Ở nước ta, Khoai lang cũng được trồng từ lâu đời ở các địa phương. Người ta đã tạo ra được nhiều giống trồng: Khoai lang trắng, Khoai lang đỏ, Khoai lang nghệ, Khoai lang tím, khoai lang vàng… Giống Khoai ở Đà lạt có vỏ đỏ, thịt vàng thuộc loại khoai ngon

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU KHÚC

Rau khúc hay Rau khúc vàng - Gnaphalium affine D.Don = G. multiceps Wall. ex DC., thuộc họ Cúc - Asteraceae. Cây thảo mọc hằng năm hay 2 năm. Thân cao tới 40-50cm, màu trắng, có lông như bông. Lá nguyên, mọc so le, thuôn hình dải, tù và có mũi cứng ở đỉnh, thon hẹp dần lại ở gốc, hơi men theo cuống, dài 4-7cm, rộng 5-15mm, có lông mềm. Đầu hoa màu vàng ánh, tập hợp thành ngù, với nhiều lá bắc có lông như bông ở mặt lưng. Quả bế thuôn hình trứng, có mào lông gồm những tơ hình sợi tóc. Rau khúc nhân bổ ở vùng Viễn đông, từ Ấn độ tới Trung quốc, Nhật bản và Philippin. Ở nước ta, Rau khúc rất phổ biến ở những nơi đất trống, các ruộng bỏ hoang, nhiều nhất là ở các tỉnh phía Bắc. Còn có một loài khác là Rau khúc tẻ hay Rau khúc Ấn (Gnaphalium indicum L.) cũng thường gặp ở nước ta.

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU ĐẮNG ĐẤT

Rau đắng đất hay Rau đắng lá vòng - Glinus oppositifolius (L.) DC., thuộc họ Rau đắng đất - Molluginaceae. Cây thảo sống lâu năm, thân cành nhẵn mọc bò lan, không có lông. Lá mọc vòng 2-5, có khi 6 lá không đều nhau, hình mác hẹp, dài 2-2,5cm, có một gân chính; lá kèm sớm rụng. Hoa màu lục nhạt có cuống dài, mọc 2-5 cái một ở nách lá. Quả nang chứa nhiều hạt hình thận. Cây thường mọc hoang trên đất cát khô ở các bãi sông, ven biển và trong những thửa ruộng khô, bãi trống ở nhiều nơi vùng đồng bằng. Nhân dân thường thu hái các ngọn non làm rau nấu canh cá để ăn.

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU DỪA NƯỚC

Rau dừa nước hay Rau dừa - Ludwigia adscendens (L.) Hara = Jussiaea repens L., thuộc họ Rau dừa nước - Onagraceae. Cây thảo mọc bò, có phần mọc nổi trên mặt nước nhờ các phao xốp màu trắng. Thân mềm, xốp, có rễ ở các mấu. Lá hình bầu dục, mọc so le. Hoa trắng có cuống dài, mọc ở nách lá. Quả nang hình trụ dài, chứa nhiều hạt. Rau dừa nước mọc hoang khắp nơi, ở ruộng nước, ao đầm, các mương rạch, mọc nổi trên mặt nước hoặc bò trên mặt bùn.

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU CHUA ME

Rau chua mẹ, Chua me đất, Chua mẹ đất hoa vàng, Chua me ba chìa - Oxalis corniculata L., thuộc họ Chua me đất - Oxalidaceae. Cây thảo mọc bò sát đất, có thân mảnh, màu đỏ nhạt. Lá có cuống dài mang ba lá chét mỏng hình tim. Hoa mọc thành xim gồm 2-4 hoa mầu vàng. Quả nang mở 5 van, chứa nhiều hạt hình trứng. Chua me đất phân bố rất rộng rãi ở các vùng nhiệt đới trên thế giới. Ở nước ta, nó mọc hoang khắp nơi, thường gặp ở những nơi ẩm, cỏ đủ ánh sáng trong các vườn, ở bờ ruộng và các bãi đất hoang.

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU CHUA LÈ

Rau chua lè, Rau má lá rau muống, Rau má tía, Cây hoa mặt trời - Emilia sonchifolia (L.) DC., thuộc họ Cúc - Asteraceae, là một loài cây thảo mọc hoang, sống hằng năm. Lúc cây còn non, các lá mọc từ gốc không chia thuỳ, hình đàn cầm nom như lá Rau má (cây rau má). Ở cây trưởng thành, các lá phía trên chia thuỳ lông chim, thuỳ tận cùng hình bầu dục - tam giác, có rặng. Các lá phía trên kèm theo cụm hoa, không cuống, có tai ở gốc; những lá này nom như lá Rau muống. Cụm hoa hình đầu, màu hồng hay màu tím khi già nở xoè ra. Quả bế có gai ngắn. Rau chua lè mọc khắp nước ta, trong các bãi cỏ, làm bụi, các bãi đất hoang, trên các bờ ruộng, đường đi.

CÂY RAU LÀM THUỐC - LÁ DÂU

Là lá của cây Dâu hay Dâu tằm - Morus alba L., thuộc họ Dâu tằm - Moraceae. Dâu tằm là loại cây to hay cây nhỡ. Lá đa dạng, hình trái xoan, hơi không cân đối, chóp lá nhọn, mép có những răng to không đều, với các thuỳ có răng. Mặt trên lá nhẵn, mặt dưới hơi có lông tơ ở nách các gân. Hoa đơn tính, cùng gốc hay khác gốc, mọc thành bông đuôi sóc ở nách lá: hoa đực có dạng bông, hoa cái có dạng bông hay khối hình cầu. Quả dâu thuộc loại quả phức gỗm nhiều quả bế bao bọc trong các lá đài mọng nước màu trắng hay màu tím sẫm.

CÂY RAU LÀM THUỐC - LÁ CHANH

Là lá của cây Chanh. Chanh là loại cây trồng rất phổ biến ở nước ta. Có loại Chanh thường - Citrus aurantifolia (Christm. et Panger) Swingle, có vỏ quả mỏng, và Chanh cốm - Citrus limon (L.) Burm.f, có vỏ quả dày và sần sùi, cũng đều thuộc họ Cam - Rutaceae. Từ trước tới nay, người ra thường trồng Chanh để lấy quả ăn. Nhưng cũng có nhiều nơi, người ra dùng đọt non và lá làm rau gia vị để nấu với nhiều thức ăn cho ngon. Lá chanh thường dùng ăn với thịt gà. Sau khi luộc xong gà, người ta lấy ra, để cho nguội, Đặt gà lên thớt, chặt ra từng miếng, xếp lên đĩa, phía da gà phải bày lên trên, trông mới đẹp. Hái một nắm lá Chanh non, rửa sạch, cắt thật nhuyễn, rải lên đĩa thịt gà. Khi ăn kèm theo một đĩa nhỏ muốt tiêu hoặc muối ớt, có vắt nước chanh.