Chuyển đến nội dung chính

Bài đăng

Hiển thị các bài đăng có nhãn Chữa Táo Bón

CHỮA BỆNH ĐƯỜNG RUỘT BẰNG RAU XANH - TÁO BÓN

Làm việc, nghỉ ngơi không đúng giờ giấc dẫn đến ăn uống không đúng giờ rất dễ dẫn đến bệnh táo bón, ảnh hưởng khí hậu cũng là nhân tố gây táo bón. Mùa thu và mùa đông khô hanh cũng là mùa hay bị táo. Ngoài ra, sức ép tâm lý tinh thần cũng gây ra chứng táo bón. Phụ nữ làm việc phải ngồi lâu, ít vận động, thần kinh căng thẳng càng dễ bị táo bón. Nếu không chữa chạy kịp thời, để tình trạng táo bón kéo dài sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe như dẫn đến các hiện tượng nhức đầu, dễ bị kích động nóng nảy, trướng bụng, buồn bực... Một số nghiên cứu cho thấy những phụ nữ bị táo bón dễ mắc bệnh ung thư, cao huyết áp hơn so với những phụ nữ không bị táo bón. Cách chữa táo bón tốt nhất là ăn nhiều rau xanh có hàm lượng xenlulô cao. Rất nhiều loại rau xanh là thứ thuốc chữa táo bón hiệu nghiệm sẵn có trong thiên nhiên, nên sử dụng để chữa táo bón. Các loại rau chữa táo bón hiệu quả điển hình là rau cải cúc, rau cần, cà rốt, củ cải, đậu tương, khoai sọ, nấm kim châm, bắp cải...

CÂY RAU LÀM THUỐC - VẢ

Vả - Ficus auriculata Lour. = F. roxburghii Wall, thuộc họ Dâu tằm - Moraceae. Cây gỗ nhỏ, cao 5-10m, có nhiều cành, có lông cứng và thưa. Lá lớn, hình trái xoan, thường là tròn, có khi hình tim ở gốc; chóp tròn hay có mũi nhọn; phiến mềm, có lông ở mặt dưới; 5-7 gân gốc, mép khía răng không đều, cuống lá dài, to; lá kèm màu hung, cao 2,5cm. Cụm hoa sung ở gốc thân hay ở trên cành già trên những nhánh riêng không có lá, rộng đến 4cm, có lông vàng vàng, sẽ phát triển thành quả phức to, xếp dày đặc trên thân, hình cầu dẹp, có nhiều lông thưa, khi chín màu đỏ thắm, giữa có keo thơm.

CÂY RAU LÀM THUỐC - THỔ NHÂN SÂM

Thổ nhân sâm - Talinum triangulare Willd., thuộc họ Rau sam - Portulacaceae. Cây thảo sống dai cao 30-50cm. Thân nạc mềm, phần non có hình tam giác, màu xanh, thường đơn. Lá mọc so le, phiến lá hình thuôn hay mũi mác hơi dày, mềm, hai mặt đều bóng, cuống ngắn... Hoa nhỏ, màu hồng hay trắng, mọc thành xim ở đầu cành. Quả nhỏ hình cầu, màu đỏ nâu, chứa khoảng 50 hạt đen nhánh. Thổ nhân sâm có nguồn gốc ở đảo Ăng ti, được nhập trồng rải rác trong các vườn gia đình làm cảnh và cũng dùng lấy cành lá làm rau xanh như loài Thổ cao ly sâm (Talinum patens (L.) Willd). Loài này có lá mọc đối, hoa thành chuỳ gồm nhiều xim.

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU MỚP

Rau mớp, Mớp gai, Củ chóc gai, Sơn thục gai hay Ráy gai - Lasia spinosa (L.) Thw., thuộc họ Ráy - Araceae. Cây thảo có thân rễ và cuống lá đều có gai. Lá to, hình mũi tên, lá già xẻ thùy lông chim, có khi đa dạng; cuống lá có bẹ. Cụm họa là một bông mo (một bông gồm có trục hoa, trên có đính các hoa, bên ngoài có mo dài bao bọc) mang nhiều hoa lưỡng tính. Quả mọng, có gai ngắn. Rau mớp gốc ở Ấn độ và được phát tán ra các vùng khác. Ở nước ta, thường gặp Rau mớp mọc hoang dại khắp nơi, nhất là chỗ ẩm ướt, có nước: ruộng nước, bờ ao, bãi lầy, ven suối, mương rạch... từ vùng thấp tới vùng cao, thường gặp từng đám. Nhân dân ta thường lấy lá non làm rau ăn luộc hoặc muối dưa.

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU MỒNG TƠI

Rau mồng tơi, Mồng tơi, Mùng tơi, Lạc quỷ - Basella alba L., thuộc họ Mồng tơi - Basellaceae. Cây thảo leo có thân quấn. Lá mọc so le, phiến nguyên và mọng nước. Hoa xếp thành bông. Quả bế, hình cầu hay hình trứng, đựng trong bao hoa nạc, tạo thành một quả giả. Rau mồng tơi được trồng rộng rãi ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Ở nước ta, Rau mồng tơi mọc hoang dại và cũng được trồng khắp nơi. Người ta cho cây mọc leo lên các hàng rào, các lùm cây bụi. Hoặc trồng như các loại rau khác ở trên đất vườn và thường xuyên cắt tỉa để lấy chồi non ăn.

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU ĐAY

Rau đay hay Đay quả dài - Corchorus olitorius L., thuộc họ Đay - Tiliaceae. Cây thảo cao 2m, mầu đo đỏ, ít phân nhánh. Lá hình trái xoan nhọn tù hay tròn ở gốc, có răng, dài 5-9cm, có 3-5 gân gốc. Hoa vàng, ở nách lá, xếp 3 cái một trên một cuống chung ngắn; cuống hoa cũng ngắn. Quá hình trụ, dài 5m, nhẵn, có 10 đường lồi. Hạt hình quả lê, tiết diện ngang có hình 5 cạnh. Rau đay được trồng khắp châu Á, châu Phi và châu Mỹ. Ở Việt nam, cũng thường được trồng trong các vườn gia đình. Rau đay sinh trưởng nhanh, chỉ sau một tháng đã có thể lấy lá non mềm, hơi có chất nhầy, cũng như ngọn non, dùng làm rau ăn sống trộn dầu giấm, ăn luộc hay nấu canh. Thường dùng phối hợp với Rau mồng tơi nấu canh cua đồng, ăn ngọt miệng lại vừa mát ruột.

CÂY RAU LÀM THUỐC - MỘC NHĨ

Mộc nhĩ, Nấm tai mèo hay Nấm mèo - Auricularia auricula (L.) Underw., thuộc họ Mộc nhĩ – Auriculariaceae. Nấm mọc trên cây gỗ thường là gỗ mục. Thể quả của nó có hình dạng giống cái tai, mặt ngoài màu nâu nhạt, có lông mịn, mặt trong màu nâu sẫm. Nấm mọc trên thân cành hay gỗ của nhiễu loài cây, lành nhất là Nấm của các cây Hòe, Dâu, Sung, Mít, Dướng, Ruối, Sắn, So đũa... Ngoài việc thu hái mộc nhĩ mọc tự nhiên, người ta thường trồng mộc nhĩ trên gỗ cây Mít, thân cây Sắn, cây So đũa để có sản lượng nhiều và bảo đảm phẩm chất tốt.

CÂY RAU LÀM THUỐC - CẢI TRỜI

Với tên Cải trời, người ta thường dùng chỉ 3 loài cây cùng một chi (Blumea subcapitata DC. Blumaea glandulosa DC. và Blumea lacera (Lamnk.) DC) thuộc họ Cúc - Asteraceae. Có người nói loài thường dùng làm thuốc là Blumea lacera. Loài này cùng với loài Blumea glandulosa có lá dùng nấu canh ăn được. Còn có một số loài khác cùng chi như Blumea fistulosa (Roxb.) Kurz và Blumea riparia (Blume) DC. Cũng có lá và ngọn non nấu canh ăn được như các loài trên. Ở đây chỉ nói đến loài Cải trời hay Cỏ hôi, Bù xít - Blumea lacera DC. là loài được nghiên cứu nhiều hơn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA TÁO BÓN

CHỮA TÁO BÓN 36 Bài thuốc Táo là do huyết mạch khô ráo, trên thì tân dịch khô kiệt, da đẻ khô nhăn, râu tóc quăn cứng; dưới thì bụng đau, tiểu sẻn đỏ, táo bón; nặng lắm thì cứng đờ. Đây là bệnh táo vì ăn nhiều đồ rán, nướng, cay, sắc dục quá độ, hoặc lúc bệnh uống nhiều thuốc công phạt hoặc cho phát hãn, hạ lợi thái quá, làm khô kiệt tân dịch, tinh huyết hao tổn rồi sinh táo. Táo bón là không đi cầu được vì đói no thất thường, nhọc mệt quá độ, tổn hại đến vị khí lại còn ăn đồ cay nóng, ngon béo để tạng thận hỏa độc, hỏa độc làm hao tổn chân âm, tân dịch kém sút không thấm nhuần được, nên sinh táo bón. Nội kinh chia táo bón ra làm 5 chứng phong, khí, hàn, nhiệt, thấp. Lại có người già khí hư, tân dịch không tư nhuận mà táo bón. Lại thêm sinh đẻ mất máu, tân dịch khô kiệt mà táo bón, các chứng đều có nguyên nhân, nên phân biệt mà chữa, mới không làm người bệnh chết oan. Phép trị chủ yếu là bổ huyết, sinh tân, bổ phế, nhuận tràng.