Chuyển đến nội dung chính

Bài đăng

Hiển thị các bài đăng có nhãn Chữa bệnh Mắt Tai Răng Họng

PHÒNG CHỮA BỆNH NHỜ RAU CỦ QUẢ QUANH TA - ĐẬU ĐỎ CHỮA BỆNH THIẾU MÁU

* Đặc tính : - Đậu đồ tên chữ Hán là "Xích tiểu đậu" hay "Xích đậu”. Theo đại danh y Tuệ Tĩnh, đậu đó vị ngọt chua, tính bình không độc. về mặt dưỡng tính kiêm cả “công” lần "bổ", trị được cả chứng mụn lở, đi tả, đau buốt cơ thể, đái tháo, nôn mửa, có tác dụng bổ huyết và lợi tiểu, là thức ăn lý tưởng cho người mắc bệnh thiếu máu. Những người thiếu máu không dám ăn gan lợn nhưng đậu đỏ khắc phục được điều đó. Từ đậu đỏ có thể chế ra nhiều món khác tuỳ theo khẩu vị như hái lá non của cây đậu đỏ, rửa sạch, luộc chín, trộn với dầu và muối ăn thay được cơm, hoặc trái đậu non luộc ăn. Thời cổ, phụ nữ trước khi sinh nở thường ăn canh đậu xanh hoặc bánh đậu xanh để làm sạch máu. Sau khi đẻ nhất định phải ăn đậu đỏ tăng cường máu. Đối với sự điều tiết của cơ thể thì đậu xanh và đậu đỏ đều là thức ăn có tác dụng như nhau. Nhưng đối với phụ nữ cần hiểu rõ nét khác biệt để có cách sử dụng hiệu quả. Dùng đậu đỏ trong thời kỳ sinh con có tác dụng rất tốt. Cơ thể người mẹ kh

PHÒNG CHỮA BỆNH NHỜ RAU CỦ QUẢ QUANH TA - HỒ TIÊU

* Đặc tính: - Hồ tiêu là hạt gia vị đặc sản của các nước phương Đông. Có nhiều loại hồ tiêu như: hồ tiêu sọ, hồ tiêu đen... - Hồ tiêu có vị cay, mùi thơm, tính nóng. - Hoạt chất gây cay trong hồ tiêu có tên khoa học là Piperin, Piperidin, Chalvicin và Piperetin. * Công dụng:

PHÒNG CHỮA BỆNH NHỜ RAU CỦ QUẢ QUANH TA - QUẢ NA ĐIẾC CHỮA SỐT RÉT

* Đặc tính: - Quả na đang lớn bị hỏng, khô đen hoặc có màu nâu đỏ, gọi là quả na điếc. Sách thuốc cổ gọi là Salê. - Theo kinh nghiệm dân gian, quả na điếc dùng ngoài như một vị thuốc chống viêm chữa quai bị, sưng vú, áp xe. - Quả na điếc khi dùng đem phơi khô, giòn, tán thành bột hoà với nước hoặc giấm cho sền sệt. * Công dụng:

PHÒNG CHỮA BỆNH NHỜ RAU CỦ QUẢ QUANH TA - HẠT MUỒNG BỔ THẬN, SÁNG MẮT

* Đặc tính: - Cây muồng còn gọi là cây đậu ma, giá hoả sinh. - Có vị mặn, tính bình, có tác dụng thanh can, ích thận, trừ phong, nhuận tràng, ích tiểu. * Công dụng:

PHÒNG CHỮA BỆNH NHỜ RAU CỦ QUẢ QUANH TA - HOA CÚC VÀNG CHỮA BỆNH VỀ MẮT

* Đặc tính: Cúc vàng (còn gọi là cúc hay cúc chi) có hai loại: cúc hoa trắng và cúc hoa vàng. Ở Trung Quốc, có cúc hoa trắng được dùng làm thuốc chữa cao huyết áp, còn ở Việt Nam, cúc hoa vàng trị các bệnh về mắt. Dược liệu cúc hoa vàng có vị ngọt, hơi đắng, màu vàng nâu, mùi thơm, tính mát, được dùng để chữa các bệnh về mắt rất hữu hiệu. * Công dụng:

PHÒNG CHỮA BỆNH NHỜ RAU CỦ QUẢ QUANH TA - CÂY SUNG TRỊ MỤN NHỌT

* Đặc tính: - Cây sung là cây rất quen thuộc với người Việt Nam. Cây sung mọc hoang và được trồng ở khắp mọi nơi trên nước ta. Sung được trồng chủ yếu ở hai bên bờ ao, rễ sung mọc lan, bám chắc giữ cho đất khỏi lở; sung rất hiếm khi được trồng trong vườn nhà bởi theo quan niệm dân gian nó chỉ là cây hoang dại, không có tác dụng gì. - Lá sung có hình mũi giáo, đầu nhọn, phía cuống hơi tròn hơn. Khi lá còn non, cả hai mặt đều phủ lông, khi lá già, lông cứng hơn, phiến lá nguyên hoặc hơi có răng cưa thưa, dài 8 - 20cm, rộng 4 - 8cm. Lá sung thường có nốt phồng, giống như bong bóng ở chiếc bánh đa nướng, do bị sâu psyllidea kí sinh, gây ra mụn nhỏ, người ta còn gọi là vú sung. - Sung không ra hoa mà đậu quả ngay, cho nên thời xưa thường là cây "vô hoa hữu quả" - không ra hoa mà vẫn đậu quả. Quả sung thuộc loại quả do đế hoa tạo thành, quả mọc từ gốc đến ngọn, chi chít trên cành, thành từng chùm trên thân cây và trên những cành to không mang lá, khi chín có màu đỏ nâu, hình quả lê

PHÒNG CHỮA BỆNH NHỜ RAU CỦ QUẢ QUANH TA - RAU KHÚC CHỮA HEN SUYỄN

* Đặc tính: - Rau khúc thuộc họ Cúc (Asteraccae), còn gọi là cây Bỏng Họng, Cúc Thảo. Là loại cây cỏ sống hàng năm, thân đơn hoặc phân nhánh, phủ đầy lông trắng. Lá hình mác hẹp góc thuôn, hai mặt có lông. Hoa cụm gồm hoa cái và hoa lưỡng tính, màu vàng. - Rau khúc được hái vào cuối xuân, đầu hạ trước khi cây ra hoa, bỏ phần rễ đem phơi khô làm dược liệu. - Dược liệu rau khúc có vị ngọt, hơi đắng, tính bình. * Công dụng:

RAU XANH CHỮA BỆNH THÔNG THƯỜNG - HO, VIÊM HỌNG

Vào mùa đông - xuân, con người dễ bị cảm và mắc chứng ho do thay đổi thời tiết, nhất là những người phổi yếu. Một số loại rau xanh dưới đây có tác dụng chữa ho, viêm họng có thể dùng điểu trị rất hiệu quả. CÁC MÓN CHỮA HO, VIÊM HỌNG

CÂY RAU LÀM THUỐC - XOÀI

Xoài - Mangifera indica L., thuộc họ Đào lộn hột - Anacardiaceae. Cây gỗ cao sống lâu năm (có thể tới 100 năm hay hơn) cao 7-8m, có thể tới 20m. Đọt ra ở đầu cành, có khi ở nách lá. Mỗi năm, có 4-5 đợt ra đọt. Lá non thường có màu đỏ hay da đồng, nhưng lá già lại có màu lục. Lá đơn, nguyên, mọc so le; phiến lá hình thuôn mũi mác, nhẵn, có mùi thơm. Hoa hợp thành chuỳ kép ở ngọn cành, mỗi chùm 30-500 hoa, có khi đến 700 hoa hay hơn nữa. Hoa nhỏ, màu vàng. Quả hạch chín màu vàng, thịt vàng sẫm, ngọt, thơm, nhân có xơ, Quả chỉ chứa một hạt to.

CÂY RAU LÀM THUỐC - THÌA LÀ

Thìa là hay Thì là - Anethum graveolens L., thuộc họ Hoa tán - Apiaceae. Cây thảo sống hằng năm, có thân nhẵn, cao 60-80cm hay hơn, khía rãnh dọc. Lá có bẹ rất phát triển, phiến xẻ 3 lần lông chim, có các phiến nhỏ hình sợi; các lá ở ngọn tiêu giảm, không có cuống. Cụm hoa ở ngọn, trên thân và trên các cành, thành tán kép gồm 5-15 tán nhỏ, các tán này có 20-40 hoa màu vàng. Quả bế kép nằm trên một cuống quả rẽ đôi.

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU TRAI

Rau trai, Rau trai ăn, Rau trai trắng, Cỏ lài trắng, Trai thường - Commelina communis L., thuộc họ Thài lài - Commelinaceae. Cỏ cao 25-50cm hay hơn, hơi có lông mềm, có lông tơ hay lông lởm chởm. Rễ dạng sợi. Thân phân nhánh, thường ngả xuống, đâm rễ ở các đốt. Lá thuôn hay hình ngọn giáo, có bẹ ở gốc, dài 2-10cm, rộng 1-2cm, không cuống. Cụm hoa xim không cuống, có những lá bắc dạng mo bao quanh. Hoa màu xanh lơ. Quả nang thường bao bởi bao hoa, thuôn hay gần hình cầu.

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU TẦN Ô

Rau tần ô, Cải cúc, Cúc tần ô, hay Rau cúc - Chrysanthemum coronarium L., thuộc họ Cúc - Asteraceae. Cây thảo sống hàng năm có thể cao tới 1,20m. Lá ôm vào thân, xẻ lông chim hai lần, với những thuỳ hình trứng hay hình thìa không đều. Cụm hoa ở nách lá, hoa màu vàng sẫm, giữa vàng lục, thơm. Có nhiều giống trồng khác nhau; người ta thường trồng giống cây lùn không vượt quá chiều cao 70cm.

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU SAM

Rau sam - Portulaca oleracea L., thuộc họ Rau sam - Portulacaceae. Cây thảo có thân mọng nước, mọc bò và nửa đứng. Thân cành có màu đỏ tím nhạt. Lá nhỏ, nguyên và nạc, màu lục sẫm nhiều hay ít, hình răng con ngựa (nên có tên là Mã xỉ hiện). Hoa màu vàng. Quả thuộc loại quả hộp mở bằng nắp nứt ngang chứa nhiều hạt đen. Rau sam là cây mọc hoang dại ở các bãi cỏ, vườn, sân ở vùng đồng bằng, trên các bờ ruộng, các chân ruộng đất cát pha ẩm ướt trồng hoa nầu. Ở các tỉnh phía Bắc, Rau sam phát triển mạnh vào mùa hè.

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU MƯƠNG

Rau mương, Lức hay Cỏ cuốn chiếu - Ludwigia hyssopifolia (G.Don) Exell, thuộc họ Rau dừa nước - Onagraceae. Cây thảo cao 25-50cm, phân nhánh mọc đứng, thân và cành có 4 góc lồi. Lá hình dải mũi mác, thuôn hẹp dài thành cuống, nhọn mũi, dài 4-8cm, rộng 10-15mm. Hoa nhỏ, màu trăng trắng, ở nách lá, không cuống. Quả hình trụ nhẵn, hơi phồng lên ở đỉnh, dài 15-18mm, rộng 2,5mm, chứa nhiều hạt hình bầu dục. Rau mương phân bố ở một số nước châu Á (Trung quốc, Philippin) và châu Mỹ (Brazil).

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU MÁC

Rau mác hay Từ cô - Sagittaria sagittifolia L., thuộc họ Trạch tả - Alismataceae. Cây thảo có thân nằm dưới đất, ở đầu phình thành củ. Lá hình mũi mác có 3 thuỳ nhọn, cuống lá dài. Cán hoa mọc đứng, trần, dài 20-90cm, mang hoa từ nửa trên. Hoa trắng, khá to, tập hợn thành chùm đứt đoạn, xếp đối nhau, hoặc thành vòng 3 cái một. Quả bế dẹp. Rau mác là loại Cây của các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới châu Âu, châu Á và châu Mỹ. Ở Việt nam, Rau mác mọc ở đầm lầy, ruộng lầy, ao đầm và những nơi có bùn.

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU CÚC SỮA

Rau cúc sữa, Nhũ cúc rau, Cỏ sữa hay Tục đoạn - Sonchus oleraceus L., thuộc họ Cúc - Asteraceae. Cây thảo mọc hằng năm, có thân rỗng, thẳng, nhẵn, cao 30cm tới 100cm hay hơn. Lá mọc so le, xẻ tua, với các thuỳ có răng, thuỳ cuối cùng hình tam giác, có tai rộng, tận cùng thành mũi. Cụm hoa đầu màu vàng, dạng trứng, thành ngù hay thành tán; lá bắc nhiều, xếp nhiều dãy, lợp lên nhau, hình tam giác hay hình dải. Quả bế hẹp, có mào lông rất mễm xếp thành nhiều dãy. Rau cúc sữa thường gặp mọc ở vùng lạnh, có tìm thấy ở Hà nội, nhưng thường gặp nhiều ở các tỉnh phía Nam, nhất là các tỉnh Tây nguyên, mọc nhiều ở đất hoang Đà lạt.

CÂY RAU LÀM THUỐC - NGHỂ BÀ

Nghể bà, Ngải bà, Nghể đông hay Nghể trâu - Polygonum orientale L., thuộc họ Rau răm - Polygonaceae. Cỏ mọc hằng năm, phủ lông rất mềm ở tất cả các bộ phận. Thân khá to, phân nhánh trải ra. Lá có cuống và có kích thước lớn, dài 30-35cm, hình trái xoan hay thuôn, hơi hình tím ở gốc, chóp nhọn; bẹ chìa cũng có lông mềm, dạng chén kéo dài. Hoa xếp thành bông kéo dài, hợp thành ngù ở ngọn cây, trên những cuống dài không lông. Quả hình lăng kính, tù ở gốc, thót lại ở ngọn.

CÂY RAU LÀM THUỐC - MƠ TAM THỂ

Mơ tam thể hay Mơ lông - Paederia lanuginosa WalL, thuộc họ Cà phê - Rubiaceae. Dây leo khỏe, có mùi mạnh. Nhánh tròn, có lông. Lá to, gốc hình tim, mặt dưới ửng đỏ, có lông mịn; cuống đài 3-6cm; lá kèm hình tam giác. Cụm hoa chuỳ có nhánh ngắn; hoa trắng miệng tím, có lông. Quả hình cầu, có đài màu vàng. Chúng ta còn sử dụng một số loài dây Mơ khác, có khi cùng gọi tên như nhau là dây Mơ lông, dây Mơ tròn. Thối địt, Rau mơ (Paederia foetida L. và Paederia scandens (Lour.) Merr.) Loài thứ nhất không lông, có quả hình mắt chim, quả vàng dẹp dẹp; còn loài thứ hai có lông hay nhẵn ở mặt dưới, có quả hình cầu, hạt lồi dày ở mặt lưng. Các loài này đều được sử dụng làm thuốc. Riêng cây Mơ tam thể thường được trồng nhiều nhất làm gia vị và làm thuốc cũng như các loài khác. Mơ tam thể thường dùng làm rau gia vị ăn sống với dồi chó, thịt chó.

CÂY RAU LÀM THUỐC - MỘC NHĨ

Mộc nhĩ, Nấm tai mèo hay Nấm mèo - Auricularia auricula (L.) Underw., thuộc họ Mộc nhĩ – Auriculariaceae. Nấm mọc trên cây gỗ thường là gỗ mục. Thể quả của nó có hình dạng giống cái tai, mặt ngoài màu nâu nhạt, có lông mịn, mặt trong màu nâu sẫm. Nấm mọc trên thân cành hay gỗ của nhiễu loài cây, lành nhất là Nấm của các cây Hòe, Dâu, Sung, Mít, Dướng, Ruối, Sắn, So đũa... Ngoài việc thu hái mộc nhĩ mọc tự nhiên, người ta thường trồng mộc nhĩ trên gỗ cây Mít, thân cây Sắn, cây So đũa để có sản lượng nhiều và bảo đảm phẩm chất tốt.

CÂY RAU LÀM THUỐC - MÀO GÀ

Ở nước ta, thường gặp Mào gà trắng hay Mào gà đuôi mang, Mào gà đuôi nheo - Celosia argentea L., và Mào gà đỏ, Mồng gà; Mồng gà tua - Celosia argentea L. var. cristata Moq. forma plumosa (Voss) Bakh., thuộc họ Rau dền - Amaranthaceae. Mào gà đỏ là cây thảo sống dai, cao 70cm hay hơn, có thân mọc đứng và phân nhánh. Lá có cuống, phiến lá hình trái xoan hay trái xoan ngọn giáo, có khi hình ngọn giáo nhọn, nhẵn. Hoa đỏ, vàng hay trắng, có cuống rất ngắn xếp thành cụm hoa bông hầu như không cuống, hình trái xoan tháp, có khi nó dẹp ra, cụt ở đỉnh. Quả thuôn, hầu như là hình cầu. Mào gà trắng là cây thảo hằng năm, nhẵn, phân nhánh nhiều hay ít, cao 80cm tới 100cm. Thân có rãnh dọc. Lá mọc so le, hình dải hay ngọn giáo, nhọn, dài 3-10cm, rộng 2-4cm: Hoa không cuống xếp thành bông trắng hay hồng, dài 3-10cm. Quả nang, mở ngang (quả hộp), chứa nhiều hạt hình thận đen, nhỏ hơn hạt Mào gà đỏ.