Chuyển đến nội dung chính

Bài đăng

Hiển thị các bài đăng có nhãn Tổng Hợp

DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN - Chương II - MỘT SỐ HỌC THUYẾT Y HỌC CỔ TRUYỀN - HỌC THUYẾT KINH LẠC

HỌC THUYẾT KINH LẠC I. GIỚI THIỆU HỌC THUYẾT KINH LẠC Học thuyết kinh lạc là một trong những học thuyết cơ bản của y học cổ truyền phương Đông. Học thuyết nghiên cứu sự biến hoá bệnh lý và hoạt động sinh lý của con người. Kinh là là đường thông của khí huyết vận hành trong cơ thể. Kinh là những đường được phân bố theo chiều dọc của cơ thể, còn lạc là những đường nhánh nhỏ nối liền giữa các đường kinh, làm thành một mạng lưới hoàn chỉnh, thông suốt trên dưới trong ngoài liên hệ giữa các tạng phủ và các cơ quan khác nhau. Kinh lạc phân bố khắp cơ thể da, thịt, xương, khớp lục phủ ngũ tạng, ngũ quan, cửu khiếu. Học thuyết kinh lạc đã chứng minh về phương diện sinh lý, bệnh lý, chẩn đoán điều trị đều có ý nghĩa quan trọng. Nó trở thành lý luận chỉ đạo lâm sàng về các mặt lý pháp phương dược. Nội dung của học thuyết kinh lạc bao gồm 2 bộ phận kinh mạch và lạc mạch, trong đó phần kinh mạch gồm 12 kinh chính và 8 kỳ kinh là nhâm mạch và đốc mạch, xung, đới, âm kiều, dương kiều, âm duy dương d...

DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN - Chương II - MỘT SỐ HỌC THUYẾT Y HỌC CỔ TRUYỀN - HỌC THUYẾT TẠNG TƯỢNG

HỌC THUYẾT TẠNG TƯỢNG I. GIỚI THIỆU Thuyết tạng phủ là một thuyết trong hệ thống lý luận của y học cổ truyền, chỉ ra hiện tượng và hình thái tạng phủ của con người dựa trên quan niệm chỉnh thể thông qua hệ thống kinh lạc, đem các tổ chức, các bộ phận toàn thân liên kết thành một khối chỉnh thể hữu cơ. - Tạng: chỉ các cơ quan có chức năng tàng trữ, quản lý các hoạt động chính của cơ thể. Có ngũ tạng: tâm, can, tỳ, phế, thận. - Phủ: chỉ các cơ quan có khả năng thu nạp chuyển giao và truyền tống cặn bã. Có 6 phủ chính (lục phủ): vị, đởm, tiểu tràng, đại tràng, bàng quang, tam tiêu. Ngoài ra còn một số phủ khác (phủ kỳ hằng), não, tử cung...

DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN - Chương II - MỘT SỐ HỌC THUYẾT Y HỌC CỔ TRUYỀN - HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH

HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH I. GIỚI THIỆU Học thuyết ngũ hành cũng là học thuyết về triết học cổ, ra đời sau thuyết âm dương, nhằm bổ sung vào những chỗ khiếm khuyết của thuyết âm dương. Thuyết được tác giả Trâu Diễn thời Chiến Quốc (Trung Quốc) nghiên cứu đề xuất. Thuyết ngũ hành dùng 5 vật thể gần gũi trong cuộc sống, tượng trưng cho vạn vật trong thiên nhiên, đó là kim (kim loại), mộc (gỗ), thuỷ (nước), hoả (lửa), thổ (đất) và gọi đó là ngũ hành. Tác giả đã đưa ra được các mối quan hệ mật thiết, hữu cơ giữa ngũ hành với nhau thông qua một số qui luật hoạt động của chúng. Đó là những qui luật tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương vũ...

DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN - Chương II - MỘT SỐ HỌC THUYẾT Y HỌC CỔ TRUYỀN - HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG

Chương II MỘT SỐ HỌC THUYẾT Y HỌC CỔ TRUYỀN HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG I. XUẤT XỨ Thuyết âm dương trong y học cổ truyền có nguồn gốc từ học thuyết triết học duy vật cổ đại phương Đông, nó thể hiện quá trình nhận thức và nắm vững quy luật phát triển của sự vật, được cổ nhân vận dụng từ 3000 năm nay. Thuyết âm dương được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau như thiên văn học, nông học, toán học, hoá học, y học cổ truyền. Trong đó y học cổ truyền vận dụng thuyết âm dương một cách nhuần nhuyễn và phong phú. Thuyết được hình thành và phát triển rộng rãi ở vào thời Xuân Thu Chiến Quốc (Trung Quốc). Nó đã trở thành lý luận cơ bản giải thích những quy luật giữa con người với vũ trụ. Coi con người là một vũ trụ thu nhỏ; đồng thời trên cơ sở của học thuyết này có thể giải thích sự phát sinh phát triển của bệnh tật và các phương pháp chẩn trị lâm sằng.

DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN - Chương I - SƠ LƯỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH NỀN Y HỌC CỔ TRUYÊN VIỆT NAM

Chương I  SƠ LƯỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH NỀN Y HỌC CỔ TRUYÊN VIỆT NAM I. PHẦN GIỚI THIỆU Dân tộc ta có một quá trình lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước rất vẻ vang, truyền thống đó được phản ảnh qua việc chỉnh phục thiên nhiên và cải tạo xã hội, chiến thắng ngoại xâm, đó cũng là nguồn động viên to lớn cho các thế hệ con người Việt Nam nhất là trong giai đoạn đấu tranh xây dựng đất nước, tiến lên con đường công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền y học cổ truyền của chúng ta. Nền y học cổ truyền được bắt nguồn từ một nền y học đần gian phong phú. Thông qua thực tiễn nhiều đời, các kinh nghiệm được đúc kết thành lý luận phong phú. Mặt khác các lý luận triết học duy vật cổ đại (thuyết âm dương, ngũ hành...) lại được các nhà y học cổ phương Đông vận dụng vào y học trong mọi lĩnh vực từ phòng bệnh đến chẩn trị, bào chế thuốc men, làm phong phú thêm cho kho tàng lý luận của y học cổ truyền. Từ đó y học cổ truyền có một nên tảng vừng chắc dựa trên hệ thống lý luận đã được ghi chép thành văn bản...

THUỐC DÙNG NGOÀI - KHINH PHẤN (Calomen)

Khinh phấn là muối thuỷ ngân clorid (Hg₂Cl₂). Tính vị: vị cay, tính hàn, có độc.

THUỐC DÙNG NGOÀI - BÀNG SA (Hàn the - Borax)

Là natri borat: B₄O₇Na.10H₂O. Tính vị: vị ngọt mặn, tính lương. Quy kinh: phế, vị.

THUỐC DÙNG NGOÀI - MINH PHÀN (phèn chua - Alumen)

Là nguồn nguyên liệu thiên nhiên (Alumite): K₂SO₄.Al₂(SO₄)₃.Al(OH)₃. Sau khi chế sẽ cho muối kép nhôm sulphat và kali: K₂SO₄.Al₂(SO₄)₃.24 H₂O. Tính vị: vị chua, tính hàn. Quy kinh: tỳ kinh.

THUỐC DÙNG NGOÀI - ĐẠI PHONG TỬ (Semen Hydnocarpi)

Dùng quả chín lấy từ hạt của cây đại phong tử – Hydnocarpus anthelmintica Pierr Laness. Họ Chùm bao – Kiggelariaceae. Tính vị: vị cay, tính nhiệt, có độc.

THUỐC DÙNG NGOÀI - SÀ SÀNG TỬ (Fructus Cnidii)

Quả chín phơi khô của cây sà sàng - Cnidium monnieri L. Họ Hoa tán – Apiaceae. Tính vị: vị cay, đắng, tính ôn. Quy kinh: thận.

THUỐC DÙNG NGOÀI - HÙNG HOÀNG (Realgar)

Là khoáng thạch trong đó có asen. Tính vị: vị cay, đắng, tính ấm, có độc. Quy kinh: can, vị.

TRỊ GIUN SÁN - THẠCH LỰU BÌ

Dùng vỏ rễ và vỏ quả phơi khô của cây lựu – Punica granatum L. Họ Lựu – Punicaceae. Tính vị: vị chua, chát, tính ấm. Quy kinh: vào 2 kinh vị và đại tràng.

TRỊ GIUN SÁN - TỎI (đại toán)

Dùng giò của cây tỏi, củ tỏi – Allium sativum L. Họ Hành – Liliaceae. Tính vị: vị cay, tính ấm. Quy kinh: vào 2 kinh tỳ và vị.

TRỊ GIUN SÁN - QUÁN CHÚNG (Rhizoma Cyrtomii)

Dùng thân rễ còn sót cuống lại của cây quán chúng - Cyrtomyum fortunei J.Sm. Họ Ráng – Polypodiaceae. Tính vị: vị đắng, tính hơi hàn, có ít độc. Quy kinh: nhập kinh tỳ và can.

TRỊ GIUN SÁN - BINH LANG (Semen Arecae)

Là hạt quả già của cây cau - Areca catechu L. Họ Cau – Arecaceae. Tính vị: vị cay, đắng, tính ấm. Quy kinh: vào 2 kinh vị, đại tràng.

TRỊ GIUN SÁN - SỬ QUÂN TỬ

Dùng hạt quả của cây sử quân tử – Quisqualis indica L. Họ Bàng – Combretaceae. Sử quân tử có mọc và được trồng ở nhiều nơi trong nước ta vào tháng 9–10, khi vỏ quả biến thành màu đen tím thì hái lấy quả, phơi khô. Sau đó bóc lấy hạt mà uống, cần bỏ các màng đen của hạt. Tính vị: vị ngọt, tính ấm. Quy kinh: vào tỳ vị.

THUỐC CHỈ TẢ - LIÊN NHỤC (Hạt sen bỏ vỏ bỏ tâm - Semen Nelumbinis)

Là hạt của cây sen - Nelumbo nucifera Gaertn. Họ Sen – Nelumbonaceae. Tính vị: vị ngọt, chát, tính bình. Quy kinh: nhập vào tâm, tỳ, thận.

THUỐC CHỈ TẢ - SIM (Đào kim phượng)

Dùng nụ phơi khô hoặc búp tươi của cây sim - Rhodomyrtus tomentosa Wight. Họ Sim – Myrtaceae. Cây sim mọc hoang rất nhiều ở vùng đồi núi nước ta, thường ở các đồi thoáng nhiều ánh sáng, mùa hạ hái lấy nụ phơi khô. Tính vị: vị chát, hơi đắng, tính bình. Quy kinh: vào kinh đại tràng.

THUỐC CHỈ TẢ - ỔI (Phan thạch lựu)

Dùng búp non, lá bánh tẻ, vỏ rộp ở thân cây ổi - Psidium guyava L. Họ Sim – Myrtaceae. Tính vị: vị đắng, chát, tính ấm. Quy kinh: vào kinh đại tràng, vị.

THUỐC CHỈ TẢ - KHIẾM THỰC (Fructus Euryales)

Dùng quả chín phơi khô của cây khiếm thực – Euryale ferox Salisb. Họ Súng – Nymphaeaceae. Tính vị: vị ngọt, chát, tính bình. Quy kinh: vào 2 kinh tỳ, thận.