Là lá của cây Dâu hay Dâu tằm - Morus alba L., thuộc họ Dâu tằm - Moraceae. Dâu tằm là loại cây to hay cây nhỡ. Lá đa dạng, hình trái xoan, hơi không cân đối, chóp lá nhọn, mép có những răng to không đều, với các thuỳ có răng. Mặt trên lá nhẵn, mặt dưới hơi có lông tơ ở nách các gân. Hoa đơn tính, cùng gốc hay khác gốc, mọc thành bông đuôi sóc ở nách lá: hoa đực có dạng bông, hoa cái có dạng bông hay khối hình cầu. Quả dâu thuộc loại quả phức gỗm nhiều quả bế bao bọc trong các lá đài mọng nước màu trắng hay màu tím sẫm.
Cây dâu tằm phân bố ở các vùng ôn đới châu Âu, châu Á, châu Mỹ, nay được trồng ở nhiều nước để lấy lá nuôi tằm. Có rất nhiễu dạng khác nhau ở dạng cành, dạng lá. Ngoài việc dùng lá nuôi tằm, người ta lấy lá non và quả chín để ăn. Lá dâu non thường được sử dụng làm rau ăn luộc hay nấu canh. Trong lá dâu, người ta đã biết có chất cao su, chất caroten, tanin, ít tinh dầu, vitamin C, colin, adenin, pentozan, đường, ecdysteron và inckosteron là những chất nội tiết cần thiết cho sự đổi lốt của tằm.
Nhiều bộ phận của cây dâu được dùng làm thuốc. Trong Y học dân tộc, lá dâu bánh tẻ (Tang diệp) được xem như có vị đắng ngọt, tính lạnh, có tác dụng tán phong, thanh nhiệt, lương huyết, làm sáng mắt, thường dùng trị cảm mạo do phong nhiệt, phát sốt, ho, viêm họng, đau răng, nhức đầu, đau mắt đỏ, chảy nước mắt, đậu lào, phát ban, huyết áp cao. Ngày dùng 4-12g lá khô sắc nước uống.
Lá dâu luộc hay nấu canh ăn, ngoài tác dụng bổ, còn dùng để chống say sóng khi đi tàu thuyền. Để chữa trẻ em đổ mồ hôi trộm, hay hấp nóng trằn trọc, ít ngủ, dùng lá Dâu phơi trong mát cho khô héo 15g, với lá Táo chua tươi 15g sắc nước uống. Để chữa bệnh da đầu khô sủi vẩy, hỏa bốc nóng trên đầu, tóc úa vàng hay rụng, dùng lá Dâu với lá Vừng (Mè) nấu với nước vo gạo mà gội đầu.
Quả dâu chín chứa đường (Glucosa và Fructosa), acid malic và succinic, protid, tanin, vitamin C, caroten. Cuả dâu là một loại thức ăn bổ. Trong Y học dân tộc, quả Dâu (Tang thẩm) được xem là có vị ngọt, tính mát, có tác dụng bể gan thận, dưỡng huyết, trừ phong nên thường được dùng chế mứt, làm xirô giải khát, hoặc dùng ngâm rượu uống cũng tốt.
Nhiều bộ phận khác như vỏ rễ, cành dâu, sâu dâu, tầm gửi cây dâu và cả con tằm ăn lá dâu cũng đều được sử dụng làm thuốc có kinh nghiệm từ lâu đời trong nhân dân ta.
Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành
Xem thêm: CHỮA HO HEN - Cây Dâu
Xem thêm: CÂY QUẢ CÂY THUỐC - DÂU TẰM
Xem thêm: TRỊ BỆNH BẰNG TRÁI CÂY - QUẢ DÂU
Nhận xét
Đăng nhận xét