Sả, Sả chanh hay Cỏ sả - Cymbapogon citratus (DC.) Stapf, thuộc họ Lúa - Poaceae. Có cao khoảng 1,5m, sống lâu năm, mọc thành bụi, phân nhánh nhiều. Thân rễ trắng hoặc hơi tía. Lá dài đến 1m, hẹp, mép hơi ráp; bẹ trắng, rộng. Cụm hoa gồm nhiều bông nhỏ không cuống.
Sả là loại cỏ có mùi thơm sớm được phát hiện ở nước ta từ trước thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên. Ngày nay, Sả được trồng rộng rãi ở các vườn gia đình để lấy thân rễ làm gia vị ăn sống, ướp với thịt lợn cho thơm, nấu thịt chó, làm dưa ăn. Lá Sả dùng nấu nước gội đầu và thường dùng phối hợp với các loài cây có tinh dầu khác trong nồi xông giải cảm cổ truyền.
Sả cũng được dùng cất tinh dầu (1-2% tinh dầu mà thành phần chủ yếu là citral và geraniol) nhưng lượng tinh dầu kém hơn nhiều loài Sả khác hiện được trồng đại trà ở nước ta là Sả Java hay Sả xoè (Cymbopogon winterianus Jowitt) có hàm lượng tinh dầu cao (8-10%). Ta còn trồng loại Sả hồng hay Sả rộng, Sả palma rosa (Cymbopogon martinii (Roxb.) Wats.).
Ngoài công dụng làm gia vị củ Sả, lá Sả và tinh dầu Sả đều được sử dụng làm thuốc đã từ lâu đời trong nhân dân ta. Sả có vị cay, tính ấm có tác dụng làm ra mồ hôi, ấm bụng, giúp tiêu hoá, khỏi nôn, thông khí, sát trùng, khử uế, tiêu đờm... Thường được chỉ định dùng điều trị: 1. Đau đầu, đau bụng, ỉa chảy; 2. Thấp khớp, đụng giập, cầm máu; 3. Kinh nguyệt không đều, phù sau khi sinh.
Sả được sử dụng nhiều qua kinh nghiệm dân gian. Lá Sả phối hợp với các loài cây có tinh dầu khác (Hương nhu, Húng chanh, Bưởi...) nấu nước dùng xông chữa cảm cúm, sốt. Lá Sả dùng pha nước uống giải nhiệt và thông tiểu, tiêu thực. Nõn Sả muối dưa ăn phòng ngừa sơn lam chướng khí, sốt rét ngã nước. Củ Sả non, thái nhỏ, phơi khô tán bột làm tiêu hoá (phối hợp với mạch nha), tẩy uế răng miệng, hội nách (phối hợp với phèn phi). Củ Sả nấu nước uống thông tiểu, làm ra mồ hôi. Dùng ngoài giã nát xát chữa chàm mặt trẻ em. Dùng củ Sả (2 nắm) phối hợp với Cỏ xước, rễ Cỏ tranh hoặc bông Mã đề (mỗi thứ 1 nắm) chữa bỗng dựng phù nề hai chân, đái ít thấp thũng.
Tinh dầu Sả được dùng phun muỗi và trừ mùi hôi thốt, dùng xoa ngoài chữa cúm, phòng bệnh truyền nhiễm. Pha vào nước nóng uống mỗi lần 10-15 giọt chữa cảm cúm hay cảm mưa ướt, sốt gai rét mà không ra mồ hôi. Với liều thấp hơn (6-8 giọt) uống vài ba lần chữa nôn, đầy, ỉa chảy.
Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành
Xem thêm: Chữa Cảm Sốt - Cây Sả
Nhận xét
Đăng nhận xét