Chuyển đến nội dung chính

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU LANG

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU LANG - Ipomoea batatas

Rau lang là ngọn lá non của cây Khoai lang - Ipomoea batatas (L.) Poir., thuộc họ Khoai lang - Convolvulaceae. Cây thảo có thân và cành mọc bò dài tới 3m, có nhựa mủ trắng. Một số rễ bên phình lên thành củ chứa nhiều bột và đường. Lá hình tim nhọn có phiến nguyên hay phân thùy. Hoa hình phễu, màu tím hoặc trắng, mọc 1-2 cái ở nách lá. Quả nang chứa 1-2 (hoặc 3-4) hạt bé.

Khoai lang phổ biến rất rộng rãi ở các vùng nóng châu Á, châu Mỹ và châu Phi, có thể có nguồn gốc ở Nam Mỹ. Crixtốp Côlông (Christophe Colomb) đã đem về trồng ở Tây ban nha. Ở nước ta, Khoai lang cũng được trồng từ lâu đời ở các địa phương. Người ta đã tạo ra được nhiều giống trồng: Khoai lang trắng, Khoai lang đỏ, Khoai lang nghệ, Khoai lang tím, khoai lang vàng… Giống Khoai ở Đà lạt có vỏ đỏ, thịt vàng thuộc loại khoai ngon

Khoai lang là một loại khoai rất thông dụng, một loại cây lương thực chủ yếu của con người. Các ngọn lá non dùng làm rau ăn, cùng với lá, có thể dùng luộc ăn chấm nước mắm tỏi, gừng hoặc xào ăn hay nấu canh. Củ khoai thường dùng luộc chín, bóc vỏ mà ăn. Có khi khoai được luộc hay hấp chín, rỗi xắt lát phơi khô (Khoai chẻ, Khoai deo) đùng để ăn dần. Ở nông thôn nhiều nơi, người ta dùng bào để thái củ khoai lang đã rửa sạch thành lát mỏng, rồi phơi khô, để nguyên lát hay giã dập để dành; nếu gọt vỏ ngoài mới bào thì được loại Khoai khô gọi là Khoai lõi.

Ngoài ra, Khoai lang còn được chế biến ra nhiều món ăn khác như Khoai lang chiên bột (chọn loại Khoai ruột đỏ, gọt ra, xắt miếng, ngâm nước cho khoai sẽ không bị đen, sau đó vớt ra cho ráo, tẩm bột, đem chiên vàng), chiên giòn (dùng Khoai lang bí hay Khoai lang trắng, cũng bào mỏng, rồi chiên vàng), nấu cà ri (với gà, chế các loại gia vị), nấu chè (với Đậu xanh, nước Dừa), làm mứt...

Trong lá và củ Khoai có nhiều chất bổ dưỡng dùng tốt cho cơ thể và cũng được dùng để trị bệnh. Củ khoai lang chứa 24,6% tinh bột; 4,17% glucose. Củ khoai khi còn tươi chứa 1,3% protein, 0,1% chất béo, các men tiêu hoá, tro, vitamin B, C và tiền sinh tố A (có rất nhiều trong loại khoai lang nghệ, khoai bí) cùng các khoáng chất (Mn, Ca, Cu). Người ta đã biết 86g rau lang, trong đó chứa 2,2g protid; 4,8g glucid cung cấp cho cơ thể 25 calo.

Dây khoai và củ khoai đã phơi trong mát chứa một ít các chất bổ dưỡng như adenin, betain, cholin… Ngọn lá khoai đỏ còn chứa một chất giống như insulin dùng để trị bệnh đái đường. Trong lá khoai còn chứa chất nhựa tẩy.

Điều mà nhiều người biết là củ khoai hoặc lá luộc ăn có tác dụng nhuận tràng, trị táo bón. Nếu dùng khoai lang sống thì tốt hơn: đem khoai rửa sạch gọt vỏ, nghiền hay đâm nát rồi bọc vải, vắt lấy nước uống lúc bụng đói, mối buổi sáng và trước mỗi bữa ăn, mỗi lần chừng nửa ly lớn. Uống liên tiếp trong vài ngày có thể hết táo bón. Một vài trường hợp đặc biệt hơn, như trong bệnh trĩ, cần uống một tháng hoặc lâu hơn. Có người dùng bột Khoai lang khô, phối hợp với vừng đen sao vàng giã nhỏ làm thuốc trị táo bón. Lá Khoai lang tươi hay khô sắc uống làm thuốc nhuận tràng. Nước Khoai lang uống nhiều không gây tiêu chảy và cũng không có hại, nó chỉ có tác dụng làm cho phân mềm, dễ tiêu hơn.

Các bà mẹ cho con bú cũng thường dùng đọt Khoai lang hấp hay nấu canh ăn để có thêm sữa.

Củ Khoai lang tươi còn được những người đi biển, đi tàu xe mang theo ăn để phòng say sóng. Khoai lang luộc xắt lát, phơi khô dùng ăn hoặc chế nước trà làm thức uống giải khát; cũng dùng cho người bị bệnh đái đường. Để trị cảm cúm, người ta có thể dùng khoai lang khô (1 nắm) phối hợp với nghệ (1 củ), giấm (1/2 bát) hoặc khoai lang khô và gừng tươi (mỗi thứ độ 15g) thêm muối sắc uống khi nóng. Để trị bỏng, người ta thường dùng đọt non khoai lang giã đắp.

Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành

Xem thêm: CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - KHOAI LANG


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.