Chuyển đến nội dung chính

Bài đăng

Hiển thị các bài đăng có nhãn Chữa Sốt Rét

CÂY RAU LÀM THUỐC - SẦU ĐÂU

Sầu đâu, Xoan đào hay Cót anh - Azadirachta indica A. Juss, thuộc họ Xoan - Meliaceae. Cây gỗ cao đến 5m. Lá mọc so le, dài 20-30cm, kép lông chim lẻ; lá chét 6-15 đôi, mọc đối, nhẵn, hình ngọn giáo, dài 6-8cm, rộng 2-3 cm, không cân đối, nhọn ở đỉnh. Hoa thơm, trắng, nhiều, xếp thành chuỳ ở nách lá gồm nhiều xim nhỏ, ngắn hơn lá. Quả hạch, màu đo đỏ, dài 2cm; hạch hoá gỗ, một ô. Khi chín, thịt quả hoá đen, khô đi và dễ tách, có khi tự tách ra. Có một hạt với các lá mầm dày, nạc.

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU CÀNG CUA

Rau càng cua - Peperomia pellucida Kunth, thuộc họ Hồ tiêu - Piperaceae. Cây thảo sống hằng năm, mọng nhớt nhẵn, phân nhánh, cao 20-40cm. Lá mọc so le, có cuống; phiến lá hình tam giác - trái xoan, hình tim ở gốc, hơi tù và nhọn ở chóp, dạng màng, trong suốt, dài 15-20mm, và ở phần gốc cũng rộng như thế. Hoa hợp thành bông dạng sợi ở ngọn và dài gấp 2-3 lần lá. Quả mọng hình cầu, đường kính 0,5mm, có mũi nhọn ngắn và cứng ở đỉnh.

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU BÉP

Rau bép hay Rau danh - Gnetum gnemon L. var. Griffithii Markgr., thuộc họ Dây gắm - Gnetaceae. Cây bụi cao 2m, có lá mọc đối, thuôn, thường có mép lá song song, nhọn ở chóp, thon hẹp dần ở gốc, mầu lục sáng bóng ở mặt trên. Cụm hoa thường ngắn, có khi phân nhánh, luôn luôn sít nhau. Hoa sinh sản và hoa không sinh sản kéo dài đều đều thành mỏ nhọn sắc. Quả gần hình cầu, có mũi nhọn ngắn, lấm tấm lông như nhung. Rau bép gặp nhiều ở rừng Tây nguyên và Khánh hoà. Ở Lâm đồng, có nhiều Gắm cây (Gnetum gnemon L.). Còn ở Gia lai Kontum và Đắc lắc, có nhiều Rau bép, là một thứ của loài Gắm cây.

CÂY RAU LÀM THUỐC - LỘC VỪNG

Lộc vừng, Lộc mưng, Vừng, Rau búng hay Chiếc - Barringtonia acutangula (L.) Gaertn., thuộc họ Lộc Vừng - Lecyhidaceae. Vừng là cây gỗ có kích thước trung bình. Lá hình trái xoan thuôn, thon lại ở gốc, tù và hơi có mũi ở chóp, dài 8-12cm, rộng 4-5cm, màu lục nhạt, tối. Hoa nhiều, thành chùm dạng bông mảnh ở ngọn cành, dài 40cm hay hơn. Quả thuôn hoặc dạng bầu dục, dài 3km, dày 2cm, có 4 góc khá rõ, như là những cái cánh. Hạt đơn độc. Lộc vừng là cây của vùng Himalaya, XriLanca, Mianma, Malaixia và Đông Dương... cho tớt Philippin và Úc. Thường gặp ở chỗ bị ngập nước, ven các hồ, suối rạch.

CÂY RAU LÀM THUỐC - LÁ CHANH

Là lá của cây Chanh. Chanh là loại cây trồng rất phổ biến ở nước ta. Có loại Chanh thường - Citrus aurantifolia (Christm. et Panger) Swingle, có vỏ quả mỏng, và Chanh cốm - Citrus limon (L.) Burm.f, có vỏ quả dày và sần sùi, cũng đều thuộc họ Cam - Rutaceae. Từ trước tới nay, người ra thường trồng Chanh để lấy quả ăn. Nhưng cũng có nhiều nơi, người ra dùng đọt non và lá làm rau gia vị để nấu với nhiều thức ăn cho ngon. Lá chanh thường dùng ăn với thịt gà. Sau khi luộc xong gà, người ta lấy ra, để cho nguội, Đặt gà lên thớt, chặt ra từng miếng, xếp lên đĩa, phía da gà phải bày lên trên, trông mới đẹp. Hái một nắm lá Chanh non, rửa sạch, cắt thật nhuyễn, rải lên đĩa thịt gà. Khi ăn kèm theo một đĩa nhỏ muốt tiêu hoặc muối ớt, có vắt nước chanh.

CÂY RAU LÀM THUỐC - LÁ CÁCH

Là lá của cây Cách. Cách hay Vọng cách - Premna carymbosa (Barm.f.) Rottl. et Willd = Premna integrifolia Roxb., thuộc họ Cỏ roi ngựa - Verbenaceae, thuộc loại cây gỗ nhỏ phân nhánh, có khi mọc leo, thường có gai. Lá mọc đối hình trái xoan hay trái xoan bầu dục, gốc tròn hay hình tim, chóp tù hay có mũi ngắn, dài tới 16cm, rộng tới 12cm, nguyên hoặc hơi khía răng ở phần trên, có ít lông ở dưới, nhất là trên các gân. Hoa nhỏ, mầu trắng lục xám, họp thành ngù ở ngọn cây. Quả hạch, hình trứng, màu đen. Cây Cách mọc hoang dại ở những nơi rậm rạp, trên các liếp vườn. Cũng thường được trồng để lấy lá non làm rau ăn và để làm thuốc.

CÂY RAU LÀM THUỐC - KHOAI NƯA

Khoai nưa hay Khoai na - Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.) Nicols, = A. campanulatus (Roxb.) Blume ex Decne, thuộc họ Ráy - Araceae. Cây thảo sống lâu năm, có thân củ nằm trong đất; củ hình bán cầu, rộng đến 20cm, mặt dưới lồi mang một số rễ phụ và có những nốt như củ khoai tây chung quanh có 3-5 mấu lồi; vỏ củ màu nâu, thịt trắng vàng và cứng. Lá mọc sau khi đã có hoa, thường chỉ có một lá có cuống cao tới 1,5m được gọi là dọc (cọng) dọc màu xanh sẫm có đốm bột; phiến chia làm 3 nom tựa như lá Ðu đủ. Cụm hoa gồm một mo to màu đỏ xanh có đốm trắng, mặt trong màu đỏ thẫm, bao lấy một bong mo là một trục mang phần hoa cái ở dưới, phần hoa đực ở trên. Khoai nưa phân bố ở Ấn độ, Myanma, Trung quốc, Việt nam, Campuchia, Malaixia, Inđônêxia, Philippin. Ở nước ta, khoai nưa mọc hoang rải rác ở khắp các vùng rừng núi, được bà con nhiều địa phương đem về trồng từ lâu đời ở trong vườn, quanh bờ ao, dọc hàng rào và trên các đồi để làm thức ăn cho người và gia súc, gặp nhiều ở các tỉnh Lạng s

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA SỐT RÉT

SỐT RÉT 100 Bài thuốc 1. Sốt rét - Thường sơn 100g - Miết giáp 60g - Thảo quả 40g - Binh lang 40g Lá Thường sơn: xé bỏ cọng, xương, phơi khô, không sao Binh lang: không sao Thảo quả: lấy nhân không sao Miết giáp: cạo sạch, đập nhỏ, tẩm giấm thanh 6 - 12 giờ, sao giòn, tán bột các vị này. Ngâm với 30ml rượu trong, lọc, hoàn hồ - viên 1g. Uống 12g mỗi lần cho người lớn - trước khi lên cơn 2 - 3 giờ. 2. Thuốc phòng bệnh sốt rét - Bột sắn dây 100g - Cam thảo 70g - Phèn chua 50g - dùng sống Sáng uống 16 - 20g với nước đun sôi để nguội Uống 1 tuần - nghỉ 1 tuần Nếu có sốt rét - uống bài trên hoặc bài này trước cơn 2 - 3 giờ.

CHỮA BỆNH NỘI KHOA - CHỮA SỐT RÉT

Bài 1 - Thành phần: Cau 15 gam, sài hồ 10 gam. - Cách chế: Đem sắc kỹ. - Công hiệu: Chữa sốt rét. - Cách dùng: Chia 2 lần uống trong mỗi ngày.