Chuyển đến nội dung chính

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU DỪA NƯỚC

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU DỪA NƯỚC - Ludwigia adscendens

Rau dừa nước hay Rau dừa - Ludwigia adscendens (L.) Hara = Jussiaea repens L., thuộc họ Rau dừa nước - Onagraceae. Cây thảo mọc bò, có phần mọc nổi trên mặt nước nhờ các phao xốp màu trắng. Thân mềm, xốp, có rễ ở các mấu. Lá hình bầu dục, mọc so le. Hoa trắng có cuống dài, mọc ở nách lá. Quả nang hình trụ dài, chứa nhiều hạt.

Rau dừa nước mọc hoang khắp nơi, ở ruộng nước, ao đầm, các mương rạch, mọc nổi trên mặt nước hoặc bò trên mặt bùn.

Rau dừa nước không dùng ăn luộc hay nấu canh; người ta thường hái các ngọn non làm rau ghém ăn sống, chấm với nước, mắm kho. Toàn cây cũng được dùng làm rau nuôi lợn. Người ta đã biết trong 100g dừa nước rau tươi, có 2,62g protid; 4,5g glucid; 5,5g xơ; 1,2g tro; 152m calcium; 2,5mg phosphor; 0,7 mg sắt; 0,26mg caroten; 52mg vitamin C. Trong thân và lá đều có flavon và tanin. Như vậy, Rau dừa nước có giá trị dinh đưỡng khá cao tương đương với rau muống và cao hơn Bèo cái và dọc lá Khoai nước.

Rau dừa nước đã được sử dụng làm thuốc từ lâu đời. Tuệ Tĩnh đã gọi nó là Du long thái. Rau dừa nước có vị ngọt nhạt, tính mát, có tác dụng giải nhiệt lợi tiểu, giải độc, kháng viêm, chống sưng, làm mát máu. Thường được dùng chữa 1. Sổ mũi, sốt, ho khan; 2. Bệnh sởi; 3. Đái đục, phù thũng; 4. Giảm niệu. Dùng ngoài chữa ung nhọt, áp xe vú, viêm tuyến mang tai, bệnh zona, eczema, viêm da, vết rắn cắn. Liều dùng uống dạng thuốc sắc 15-25. Dùng ngâm, lấy cây tươi giã đắp, hoặc sao nóng để đắp.

- Chữa cảm sốt, ho khan, đái són, đái gắt, nước tiểu vàng hay đỏ: dùng 30g Rau dừa sắc nước uống.

- Chữa đái ra dưỡng trấp, viêm cầu thận cấp và các loại đái đục: dùng riêng Rau dừa nước 30-40g, hoặc phối hợp với Tua rễ đa (lấy phần non của rễ mọc phụ sinh từ cành) 20-30g, Tỳ giải 15-20g sắc nước uống, 5-7 thang thì khỏi.

- Chữa bị thương phần mềm, ứ mấu sưng tấy hoặc mụn nhọt đơn độc sưng lở, ngoài dùng Rau dừa nước giã nhỏ, chế ít giấm đắp chỗ đau. Lại dùng Rau dừa nước và vỏ cây Gáo (lấy lớp trắng ở trong) mỗi vị 3g sắc uống.

- Sốt kéo dài sau bệnh sởi: Rau dừa nước tươi 30-60g, giả tươi lấy nước cốt uống.

- Giảm niệu: Rau dừa nước 3g, đường 15g đun sôi trong nước và dùng ngày 2 lần trước bữa ăn.

Người ta còn dùng ăn trị đau bụng (vài loài Rau dừa khác có tác dụng trị lỵ) và dùng giã nát đắp chữa các bệnh ngoài da, sưng lở, bị thương và trị rắn cắn.

Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành

Xem thêm: CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - RAU DỪA NƯỚC


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.