Rau rút hay Rau nhút - Neptunia oleracea Lour, thuộc họ Đậu - Fabaceae. Cây thảo nổi ngang mặt nước, quanh thân có phao xốp màu trắng. Lá kép lông chim hai lần. Hoa họp thành đầu màu vàng. Quả dẹp, chứa 6 hạt dẹp.
Rau rút mọc dưới nước ở mương rãnh, ao hồ. Điều kiện để Rau rút sinh trưởng mạnh là dưới đáy mương phải có sình lầy, nhưng lượng nước trong mương phải sạch. Rau rút dễ nhận vì nó nổi ngang mặt nước, quanh thân có phao xốp màu trắng. Cây có hoa vào mùa mưa.
Rau rút thường được trồng làm rau ăn. Cũng như Rau muống, Rau rút là món ăn rất thông thường của nhân dân ta. Rau rút có mùi thơm đặc biệt, tựa như mùi Nấm hương. Nếu cần cung cấp cho cơ thể 25 calo, ta cần dùng 65g, trong đó có chứa 3,4g protid và 4,4g glucid.
Rau rút thường được sử dụng dưới hai dạng:
1. Ăn sống: hái lấy đọt non, nhặt bỏ rễ và lớp bao trắng bên ngoài, rửa sạch, ăn cả cọng lẫn lá, như các loại rau tươi khác. Rau rút tươi dùng ăn chấm với nước mắm kho.
2. Nấu canh chua với tép hoặc cá: nhặt rau, rửa sạch, cắt ngắn. Bắc xoong lên bếp đun sôi, lược nước me vào xoong, rồi đổ tôm tép hoặc cá đã làm kỹ vào. Sau đó mới đổ rau. Khi thấy cá, tép và rau đã chín, thì nêm bột ngọt, nước và cho các loại rau thơm (như Ngò tây, Rau ngổ, Húng quế…) cho dậy mùi.
Người ta còn dùng Rau rút nấu canh riêu cua với khoai sọ ăn cho mát.
Rau rút cũng được dùng làm thuốc. Nó có vị ngọt, tính mát, có tác dụng nhuận tràng, mát gan, giải nóng nhiệt, mạnh gân cốt, an thần gây ngủ. Thường dùng chữa sốt, chữa bướu cổ, trị lỵ.
- Chữa sốt cao, không ngủ được, nóng ruột, tiểu tiện không thông, dùng 30g Rau rút giã nhỏ, vắt lấy nước cốt uống.
- Chữa bướu cổ, dùng Rau rút ăn hàng ngày, ăn liền một tháng thì có hiệu quả. Hoặc dùng phương thuốc: Rau rút 30g; Cải trời 20g; Mạch Môn, Sinh địa đều 15g; Sài hồ, Kinh giới, Xạ can đều 8g, sắc uống.
Cũng cần chú ý là Rau rút tính lạnh, ăn thì dễ ngủ, mát dạ dày, nhưng người tạng hàn ăn thì sình bụng, trẻ nhỏ ăn thì chân yếu.
Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành
Nhận xét
Đăng nhận xét