Chuyển đến nội dung chính

CÂY RAU LÀM THUỐC - KHOAI NƯA

CÂY RAU LÀM THUỐC - KHOAI NƯA - Amorphophallus paeoniifolius + Amorphophallus riveri

Khoai nưa hay Khoai na - Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.) Nicols, = A. campanulatus (Roxb.) Blume ex Decne, thuộc họ Ráy - Araceae. Cây thảo sống lâu năm, có thân củ nằm trong đất; củ hình bán cầu, rộng đến 20cm, mặt dưới lồi mang một số rễ phụ và có những nốt như củ khoai tây chung quanh có 3-5 mấu lồi; vỏ củ màu nâu, thịt trắng vàng và cứng. Lá mọc sau khi đã có hoa, thường chỉ có một lá có cuống cao tới 1,5m được gọi là dọc (cọng) dọc màu xanh sẫm có đốm bột; phiến chia làm 3 nom tựa như lá Ðu đủ. Cụm hoa gồm một mo to màu đỏ xanh có đốm trắng, mặt trong màu đỏ thẫm, bao lấy một bong mo là một trục mang phần hoa cái ở dưới, phần hoa đực ở trên.

Khoai nưa phân bố ở Ấn độ, Myanma, Trung quốc, Việt nam, Campuchia, Malaixia, Inđônêxia, Philippin. Ở nước ta, khoai nưa mọc hoang rải rác ở khắp các vùng rừng núi, được bà con nhiều địa phương đem về trồng từ lâu đời ở trong vườn, quanh bờ ao, dọc hàng rào và trên các đồi để làm thức ăn cho người và gia súc, gặp nhiều ở các tỉnh Lạng sơn, Quảng ninh, Bắc giang, Hoà bình, Nghệ an, Hà tĩnh, Quảng trị.

Củ khoai nưa thu hoạch khi chưa già thì bở mà ít ngứa. Để qua vụ thì sượng, không bở mà ngứa.

Kinh nghiệm bới sớm thì chỉ gọt vỏ, ngâm nước vo gạo độ nửa ngày, rồi nấu với một nhún muối độ một giờ thì ăn được. Khoai già và củ to thì phải bổ đôi hay bổ tư thành từng miếng, ngâm nước phèn một đêm, rồi nấu với một cục vôi trong một giờ thì mới hết ngứa. Muốn để dự trữ dùng dần thì cũng phải thái miếng, ngâm với nước phèn một đêm, đem phơi, rồi ngâm với nước nóng hoà vôi.

Bà con ta trồng khoai nưa chủ yếu để lấy bột. Bột nưa trắng mịn giống như bột sắn nhưng có tỷ lệ tinh bột cao hơn nhiều. Bột nưa được dùng để chế các loại bánh, làm miến, hoặc sử dụng trong công nghiệp (để hồ vải, hồ lụa). Khi dùng tươi có thể luộc ăn hoặc nấu độn với cơm, ăn chắc dạ, mát, không nóng ruột như ăn khoai lang, khoai sọ; cũng được dùng nấu chè.

Dọc nưa cũng ăn được. Người ta lấy dọc về, tước bỏ vỏ, thái khúc, ngâm nước vo gạo cho hết ngứa rồi có thể nấu canh giấm như dọc mùng, hoặc muối dưa ăn. Trong lá khoai nưa, có tỷ lệ thành phần hoá học như sau: Nước 74,8; protein 1,9; lipid 0,5; cellulose 1,6; dẫn xuất không protein 20,7 và khoáng toàn phần 0,5.

Củ nưa, dọc và lá, bã bột khoai nưa là nguồn thức ăn tốt cho gia súc. Người ta lấy toàn bộ cây nưa cả cành lá và củ thái nhỏ, nấu với nước vo gạo và cho thêm nhúm muối, pha thêm ít cám cho lợn ăn rất tốt. Trong trường hợp thu được nhiều dọc, thì có thể băm nhỏ, phơi khô để dành làm thức ăn dự trữ nuôi lợn.

Nhân dân ta ở một số vùng đồi núi thuộc các tỉnh Quảng ninh, Lạng sơn, Bắc giang còn trồng một loại khoai nưa khác còn gọi là khoai ngái (Amorphophallus riveri Dur.) để lấy củ đem luộc ăn ngay hoặc luộc rồi để nguội, cắt thành khoanh đem nướng ăn dẻo tựa bánh dày nướng. Thường phải chế biến như khoai nưa mới khỏi ngứa. Củ khoai ngái dùng độn với cơm, nấu chè; bột nó cũng rất trắng, nên có thể dùng chế các loại bánh như bánh rán, bánh quế hoặc một loại bánh đa khô gọi là cao khô, và làm miến.

Dọc khoai ngái cũng ăn được; lúc còn non dùng nấu với cá, lúc già để muối dưa hoặc đem luộc, tước nhỏ ra phơi khô làm rau dự trữ ăn dần. Dọc lá, vỏ củ, bã bột khoai ngái cũng là nguồn thức ăn rất tốt cho gia súc.

Có thể nói các loại khoai nưa, khoai ngái là những cây cho bột có giá trị kinh tế cao, không một bộ phận nào của cây bị vứt bỏ.

Củ nưa già cũng được dùng làm thuốc, Lương y Lê Trần Đức cho biết: Củ nưa già vị cay ngứa, tính ấm, có độc, có tác dụng sát trùng, trục thai chết, tiêu đờm và chữa sốt rét cơn. Dùng ngoài đắp mụn nhọt sựng tấy. Dùng uống phải chế như cách chế Nam tinh, Bán hạ tức là thái miếng, ngâm nước vo gạo một ngày đêm sau ngâm nước phèn chua một đêm, phơi khô và nấu với Gừng (100g gừng với 1kg củ nưa) 3 giờ cho hết cay. Liều dùng là 4-12g.

Để chữa sốt rét có báng, đờm trệ, ăn không tiêu, dày da bụng, dùng củ Nưa chế l2g, Trần bì, Bách bệnh, Nam mộc hương, Ý dĩ (sao), Nga truật, Xa can, đều 10g mỗi vị, sắc uống, hay tán bột uống, mỗi ngày 24g.

Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành

Xem thêm: CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Khoai Nưa


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.