Chuyển đến nội dung chính

Bài đăng

CÂY RAU LÀM THUỐC - MÀO GÀ

Ở nước ta, thường gặp Mào gà trắng hay Mào gà đuôi mang, Mào gà đuôi nheo - Celosia argentea L., và Mào gà đỏ, Mồng gà; Mồng gà tua - Celosia argentea L. var. cristata Moq. forma plumosa (Voss) Bakh., thuộc họ Rau dền - Amaranthaceae. Mào gà đỏ là cây thảo sống dai, cao 70cm hay hơn, có thân mọc đứng và phân nhánh. Lá có cuống, phiến lá hình trái xoan hay trái xoan ngọn giáo, có khi hình ngọn giáo nhọn, nhẵn. Hoa đỏ, vàng hay trắng, có cuống rất ngắn xếp thành cụm hoa bông hầu như không cuống, hình trái xoan tháp, có khi nó dẹp ra, cụt ở đỉnh. Quả thuôn, hầu như là hình cầu. Mào gà trắng là cây thảo hằng năm, nhẵn, phân nhánh nhiều hay ít, cao 80cm tới 100cm. Thân có rãnh dọc. Lá mọc so le, hình dải hay ngọn giáo, nhọn, dài 3-10cm, rộng 2-4cm: Hoa không cuống xếp thành bông trắng hay hồng, dài 3-10cm. Quả nang, mở ngang (quả hộp), chứa nhiều hạt hình thận đen, nhỏ hơn hạt Mào gà đỏ.

CÂY RAU LÀM THUỐC - MÀN MÀN

Màn màn hay Màn họa trắng - Cleome gynandra L., thuộc họ Màn màn – Capparaceae. Cây thảo hằng năm cao 1m, nhẵn hoặc hơi có lông. Lá kép chân vịt có 5 lá chét hình giáo ngược, thon hẹp ở gốc, ngắn hơn cuống lá chung. Hoa trắng, thành chùm ở ngọn cây, ở nách những lá bắc dạng lá không cuống, có 3 lá nhỏ. Quả nang dài dạng quả cải, mở thành 2 van dạng màng. Hạt hình thận. Màn màn là loài liên nhiệt đới, phổ biến khắp Đông dương; thường gặp mọc hoang dại ở gần khu dân cư trên các đất hoang. Cây có những tính chất kích thích và chống scorbut như cải soong nên cũng được nhiều dân tộc dùng ăn. Chúng có vị đắng nhưng khi nấu lên thì không còn vị đắng nữa. Nhân dân ta và Campuchia cũng thường dùng cành lá non và lá để làm rau ăn. Có thể luộc chấm nước mắm, xì dầu ăn với cơm, nhưng cũng thường muối chua như muối dưa.

CÂY RAU LÀM THUỐC - MÃ ĐỀ

Mã đề - Plantago major L., thuộc họ Mã đề - Plantaginaceae. Cây thảo sống dai, có gốc dày, với nhiều rễ phụ dài. Lá mọc thành hình hoa thị ở gốc, hình trái xoan rộng, có răng không đều, dày, dai, có phiến thon lại trên cuống lá; gân 3-7, hình cung. Cuống hoa trần mang về phía đỉnh một bông hoa dài 5-15 cm, có hoa xếp dày đặc. Quả nang thuôn hình, nón, mở theo kiểu hộp. Hạt 8-12, màu nâu đen bóng, hình thoi, vò hạt hoá nhầy khi gặp nước. Cây mã đề phân bố rộng rãi ở châu Âu và châu Á. Ở nước ta, mã đề mọc hoang ở khắp nơi, trên bờ ruộng, bãi cỏ, ven đường, ven khe suối, nơi ẩm ướt và sáng. Cũng thường được trồng làm rau ăn và làm thuốc.

CÂY RAU LÀM THUỐC - LU LU ĐỰC

Lu lu đực, Thù lù đực hay cây Nụ áo - Solanum nigrum L., thuộc họ Cà - Solanaceae. Cây thảo cao 30-100cm, sống hằng năm hay sống dai, có thân phân nhiều cành có góc. Lá nguyên, hình trái xoan, nhọn, thuôn dần thành cuống; phiến hơi phân thuỳ hay có góc. Hoa hợp thành chuỳ dạng tán ở các cành bên; tràng hoa màu trắng hoặc tím tím; cuống hoa dài 1-3cm. Quả mọng, tròn, lúc còn non có màu lục sau chuyển sang mầu vàng hay đỏ và khi chín có màu đen, chứa nhiều hột dẹp. Cây mọc phổ biến trong nhiều vùng nhiệt đới. Ở nước ta, Lu lu đực mọc dại ở các bãi hoang, ruộng khô, ven đường đi khắp nước ta. Ở nhiều nước vùng nóng, các nước châu Phi và đảo Môrixơ, ở Ấn độ, Trung quốc cũng như ở nước ta, người ta dùng các chồi non, cây con ăn như các loại Rau cải; các chồi non dùng trộn với dầu giấm thành món ăn tươi sống vừa bổ, vừa nhuận tràng và lợi tiểu. Quả cũng luộc ăn được.

CÂY RAU LÀM THUỐC - LỘC VỪNG

Lộc vừng, Lộc mưng, Vừng, Rau búng hay Chiếc - Barringtonia acutangula (L.) Gaertn., thuộc họ Lộc Vừng - Lecyhidaceae. Vừng là cây gỗ có kích thước trung bình. Lá hình trái xoan thuôn, thon lại ở gốc, tù và hơi có mũi ở chóp, dài 8-12cm, rộng 4-5cm, màu lục nhạt, tối. Hoa nhiều, thành chùm dạng bông mảnh ở ngọn cành, dài 40cm hay hơn. Quả thuôn hoặc dạng bầu dục, dài 3km, dày 2cm, có 4 góc khá rõ, như là những cái cánh. Hạt đơn độc. Lộc vừng là cây của vùng Himalaya, XriLanca, Mianma, Malaixia và Đông Dương... cho tớt Philippin và Úc. Thường gặp ở chỗ bị ngập nước, ven các hồ, suối rạch.

CÂY RAU LÀM THUỐC - LÀNH NGẠNH

Lành ngạnh hay Thành ngạnh, Ngành ngạnh, Cây đỏ ngọn - Cratoxylum formosum (Jack) Dyer ssp. Prunifolium (Kurz) Gogelein, thuộc họ Măng cụt - Clusiaceae. Cây gỗ nhỏ, có gai ở phía gốc. Các nhánh non có lông mềm, rồi hoá nhẵn dần dần, có vỏ màu tro. Lá hình trái xoan ngược hay bầu dục thuôn, nhọn ở gốc, có mũi nhọn ở đỉnh, hơi có lông nhung ở mặt trên, có lông mềm mịn ở mặt dưới, dài 6-11cm, rộng 25-35mm. Ở chồi non thường có màu đỏ (do đó mà có tên là cây đỏ ngọn). Hoa 4-6m, mọc đơn độc trên các nhánh ngắn, có lông nhung, dài 15mm, các cánh hoa màu đỏ. (Quả nang dài 15mm, rộng 7-8mm. Hạt hình trái xoan ngược, có móng, không cân đối, dài 6mm, rộng 3mm.

CÂY RAU LÀM THUỐC - LẠC TIÊN

Lạc tiên, còn gọi là Dây chùm bao hay Dây nhãn lồng - Passiflora foetida L., thuộc họ Lạc tiên - Passifloraceae. Dây leo bằng tua cuốn, có lá mọc so le, hình tim, xẻ ba thuỳ và có nhiều lông. Hoa trắng, có tràng phụ hình sợi màu tím. Quả tròn bao bởi các lá bắc cùng lớn lên với quả; quả chín, có màu vàng, dùng ăn được. Lạc tiên mọc hoang dại khắp các vùng đồi núi, các lùm bụi, leo lên các loại cây khác. Cũng được trồng ở các vườn thuốc. Ta thường dùng đọt non của lạc tiên làm rau luộc ăn, chấm mắm nêm. Rau lạc tiên có tác dụng an thần và làm cho dễ ngủ.

CÂY RAU LÀM THUỐC - LÁ VÔNG

Là lá của cây Vông hay Vông nem - Erythrina variegata L. = E. Indica Lamk., thuộc họ Đậu - Fabaceae. Vông nem là loại cây to, cao tới 10m, có nhiều gai ngắn màu đen. Lá mọc so le, là loại lá kép có 3 lá chét hình thoi, nhẵn; lá chét giữa lớn hơn 2 lá chét bên. Chùm hoa ngắn gồm nhiều họa màu đỏ chói. Quả đậu có eo giữa các hạt; hạt hình thận, màu nâu. Vông nem gốc ở Ấn độ và quần đảo Polynêdi. Ở nước ta cũng thường gặp vông nem mọc hoang dại ở những nơi rậm rạp vùng đồi núi nhưng cũng được trồng nhiều làm bờ rào, bờ dậu và làm cây cảnh. Do cây sinh trưởng nhanh, nên ở nhiều nơi, người ta trồng vông làm cây nọc cho trầu và hồ tiêu leo. Vông là loại cây mọc thẳng và sống dai, nhưng do cành lá phát triển nhiều nên phải phát bớt lá mới có đủ ánh sáng cho cây trầu và tiêu leo.

CÂY RAU LÀM THUỐC - LÁ LỐT

Là lá của cây Lá lốt - Piber lolot L., thuộc họ Hồ tiêu - Piperaceae. Lá lốt là loai cây thảo sống nhiều năm, cao 30-40cm hay hơn; thân có rãnh dọc. Lá đơn, nguyên, mọc so le, hình tim, có 5 gân chính tỏa ra từ cuống lá; cuống có bẹ ở gốc ôm lấy thân. Cụm họa là một bông đơn mọc ở nách lá. Quả mọng chứa một hạt. Lá lốt là loại rau có thể dùng ăn sống như các loại rau thơm, hoặc dùng làm gia vị nấu canh ốc, lươn, ếch, ba ba, cá ... cho có mùi thơm, bớt tanh và chống di ứng. Cũng dùng gói thịt bò, thịt lợn để nướng chả, hoặc dùng làm rau xào thịt bò ăn cho có mùi thơm.

CÂY RAU LÀM THUỐC - LÁ DÂU

Là lá của cây Dâu hay Dâu tằm - Morus alba L., thuộc họ Dâu tằm - Moraceae. Dâu tằm là loại cây to hay cây nhỡ. Lá đa dạng, hình trái xoan, hơi không cân đối, chóp lá nhọn, mép có những răng to không đều, với các thuỳ có răng. Mặt trên lá nhẵn, mặt dưới hơi có lông tơ ở nách các gân. Hoa đơn tính, cùng gốc hay khác gốc, mọc thành bông đuôi sóc ở nách lá: hoa đực có dạng bông, hoa cái có dạng bông hay khối hình cầu. Quả dâu thuộc loại quả phức gỗm nhiều quả bế bao bọc trong các lá đài mọng nước màu trắng hay màu tím sẫm.

CÂY RAU LÀM THUỐC - LÁ CHÙM RUỘT

Chùm ruột hay Tâm duột, Tầm ruột - Phyllanthus acidus (L.) Skeels, thuộc họ Thầu dầu - Euphorbiaceae. Cây nhỏ, cao tới 5m hay hơn, có thân nhẵn. Cành non màu lục nhạt, cành già màu xám. Lá kép, mọc so le, có cuống dài mang nhiều lá chét mỏng, gốc tròn, chóp nhọn. Hoa nhỏ mọc thành xim với 4-7 hoa màu đỏ ở nách những lá đã rụng. Quả nang có khía, màu vàng lục, vị chua ngọt.

CÂY RAU LÀM THUỐC - LÁ CHANH

Là lá của cây Chanh. Chanh là loại cây trồng rất phổ biến ở nước ta. Có loại Chanh thường - Citrus aurantifolia (Christm. et Panger) Swingle, có vỏ quả mỏng, và Chanh cốm - Citrus limon (L.) Burm.f, có vỏ quả dày và sần sùi, cũng đều thuộc họ Cam - Rutaceae. Từ trước tới nay, người ra thường trồng Chanh để lấy quả ăn. Nhưng cũng có nhiều nơi, người ra dùng đọt non và lá làm rau gia vị để nấu với nhiều thức ăn cho ngon. Lá chanh thường dùng ăn với thịt gà. Sau khi luộc xong gà, người ta lấy ra, để cho nguội, Đặt gà lên thớt, chặt ra từng miếng, xếp lên đĩa, phía da gà phải bày lên trên, trông mới đẹp. Hái một nắm lá Chanh non, rửa sạch, cắt thật nhuyễn, rải lên đĩa thịt gà. Khi ăn kèm theo một đĩa nhỏ muốt tiêu hoặc muối ớt, có vắt nước chanh.

CÂY RAU LÀM THUỐC - LÁ CÁCH

Là lá của cây Cách. Cách hay Vọng cách - Premna carymbosa (Barm.f.) Rottl. et Willd = Premna integrifolia Roxb., thuộc họ Cỏ roi ngựa - Verbenaceae, thuộc loại cây gỗ nhỏ phân nhánh, có khi mọc leo, thường có gai. Lá mọc đối hình trái xoan hay trái xoan bầu dục, gốc tròn hay hình tim, chóp tù hay có mũi ngắn, dài tới 16cm, rộng tới 12cm, nguyên hoặc hơi khía răng ở phần trên, có ít lông ở dưới, nhất là trên các gân. Hoa nhỏ, mầu trắng lục xám, họp thành ngù ở ngọn cây. Quả hạch, hình trứng, màu đen. Cây Cách mọc hoang dại ở những nơi rậm rạp, trên các liếp vườn. Cũng thường được trồng để lấy lá non làm rau ăn và để làm thuốc.

CÂY RAU LÀM THUỐC - KINH GIỚI

Kinh giới hay Khương giới - Elsholtzia ciliata (Thunb.) Hyland. = E. Cristata Willd., thuộc họ Hoa môi - Lamiaceae. Cây thảo cao tới 50cm hay hơn, có thân vuông mọc đứng, mang nhiều lá mọc đối, có cuống; phiến lá có hình trái xoan hay thuôn, có răng cưa ở mép; hoa nhỏ không cuống màu xanh lơ nhạt; quả gồm 4 hạch nhỏ. Kính giới có nguồn gốc ở châu Âu và vùng bắc cực châu Á. Cũng được trồng rộng rãi khắp nước ta. Ta thường dùng cành non và lá làm rau gia vị ăn với các loại rau sống, ăn với rau muống luộc. Kinh giới, tía tô là hai loài rau gia vị quen thuộc trong đĩa rau sống hoặc trong bát cà bung, bên đĩa rau muống xào.

CÂY RAU LÀM THUỐC - KIỆU

Kiệu -Allium chinense G.Don, thuộc họ Hành - Aliaccae. Cây thảo nhỏ có thân hành màu trắng, hình trái xoan thuôn, bao bởi nhiều vẩy mỏng. Lá mọc ở gốc, hình dải hẹp, nửa hình trụ, dài 15-60 cm, rộng 1,5-4mm. Cụm hoa hình tán trên một cuống hoa dài 15-60cm mang 6-30 tán hoa màu hồng hay màu tím. Kiệu được trồng rộng rãi ở nông thôn để lấy củ muối dưa ăn liền hoặc làm dưa để ăn dần. Muốn có kiệu ăn trong vòng 5-6 ngày, ta mua kiệu về, nhặt sạch rễ, vỏ, rồi ngâm củ kiệu một đêm trong một thau nước muối. Vớt ra rồi lại ngâm vào nước gạo. Sau đó vớt ra xếp củ kiệu vào keo. Nấu giấm có pha đường cát để nguội rồi đổ vào keo dưa. Có người ngâm củ kiệu vào nước phèn chua trong hai giờ rồi lấy ra rửa sạch, để ráo nước, sau đó cho kiệu vào keo, nấu nước muối giấm, đường đổ vào.

CÂY RAU LÀM THUỐC - KHOAI NƯA

Khoai nưa hay Khoai na - Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.) Nicols, = A. campanulatus (Roxb.) Blume ex Decne, thuộc họ Ráy - Araceae. Cây thảo sống lâu năm, có thân củ nằm trong đất; củ hình bán cầu, rộng đến 20cm, mặt dưới lồi mang một số rễ phụ và có những nốt như củ khoai tây chung quanh có 3-5 mấu lồi; vỏ củ màu nâu, thịt trắng vàng và cứng. Lá mọc sau khi đã có hoa, thường chỉ có một lá có cuống cao tới 1,5m được gọi là dọc (cọng) dọc màu xanh sẫm có đốm bột; phiến chia làm 3 nom tựa như lá Ðu đủ. Cụm hoa gồm một mo to màu đỏ xanh có đốm trắng, mặt trong màu đỏ thẫm, bao lấy một bong mo là một trục mang phần hoa cái ở dưới, phần hoa đực ở trên. Khoai nưa phân bố ở Ấn độ, Myanma, Trung quốc, Việt nam, Campuchia, Malaixia, Inđônêxia, Philippin. Ở nước ta, khoai nưa mọc hoang rải rác ở khắp các vùng rừng núi, được bà con nhiều địa phương đem về trồng từ lâu đời ở trong vườn, quanh bờ ao, dọc hàng rào và trên các đồi để làm thức ăn cho người và gia súc, gặp nhiều ở các tỉnh Lạng s

CÂY RAU LÀM THUỐC - KHẾ

Khế - Averrhoa carambola L., thuộc họ Chua me - Oxalidaceae. Cây gỗ cao tới 10m. Lá kép lông chim gồm 3 đến 5 đôi lá chét. Cụm hoa ngắn, thanh chùm xim ở kẽ các lá. Hoa màu hồng hay màu tím. Quả to, tiết diện hình ngôi sao năm múi. Khế gốc ở Malaixia, được trồng ở các nước nhiệt đới và cận á nhiệt đới. Khế được trồng ở khắp nước ta và do trồng trọt mà người ta tạo ra nhiều giống trồng (Khế chua, Khế ngọt ...) Khế múi ít chua, có hàm lượng acid oxalic là 1%, và khi chín muồi, là món ăn được nhiều người ưa thích. Người ta thường dùng Khế ăn sống chấm mắm, nấu canh chua với tôm tép và cá. Quả chín có thể chế mứt. Có khi người ta còn xắt lát Khế múi phơi khô để dành vào lúc mưa bão thiếu rau để nấu canh chua hoặc xào với thịt, tôm tép làm món ăn. Người ta đã xác định được trong thành phần của Khế múi, có các chất theo tỷ lệ phần trăm như sau: nước 92,0; protein 0,3; lipid 0,4; glucid 5,7; cellulose l; tro 0,3; có các nguyên tố ví lượng calcium 8mg%; phosphor 15mng%; sắt 0,9; natri 2; và ka

CÂY RAU LÀM THUỐC - HƯƠNG NHU TÍA

Hương nhu tía hay É rừng, É tía - Ocimum sanctum L. thuộc họ Hoa miôi - Lamiaceae. Cây thảo hay cây nửa bụi, phân nhánh nhiều, sống dai. Thân và cành thường có màu tía, có lông rạp xuống. Lá mọc đối, có cuống khá dài, thuôn, hình ngọn giáo hay hình trái xoan, dài 1-5cm, có răng, có lông tơ ở cả hai mặt. Hoa nhỏ có màu tím nhạt, xếp thành 6-8 ngù tập hợp thành chùm đơn ở ngọn, ít khi phân nhánh. Cây được trỗng ở các xứ nhiệt đới và cũng được trồng phổ biến ở nước ta để lấy lá làm rau ăn như các loại rau gia vị khác. Lá và hoa hương nhu tía khi vò ra có mùi thơm của tinh dầu đinh hương. Người ta đã biết trong lá có tinh dầu mà thành phần chủ yếu gồm estragol, cineol và linalol. Ở Ấn độ, chưng cất lá bằng hơi nước, người ta thu được 0,7% tỉnh dầu có mùi mạnh của tinh dầu đinh hương và phenol. Nó chứa 71% eugenol; 20% ether metylic của eugenol và 3% carvacrol. Nó là nguồn chiết eugenol tốt. Tinh dầu hương nhu tía có tính chất kích thích và làm toát mồ hôi như các loại cây có tinh dầu khác

CÂY RAU LÀM THUỐC - HÚNG QUẾ

Húng quế, Húng giổi, Rau é, É trắng - Ocimum basilicum L., thuộc họ Hoa môi - Lamiaceae. Cây bụi nhỏ cao tới 50cm, có cành vuông. Lá mọc đối, màu lục bóng, hơi khía răng ở mép. Hoa mọc thành chùm đơn, dài đến 20cm, gồm những vòng 5-6 hoa nhỏ, màu trắng hay hồng. Quả bế tư, rời nhau, mỗi quả chứa một hạt. Cây gốc ở Ấn độ, được trồng rộng rãi ở châu Á, châu Phi nhiệt đới, các đảo Thái bình dương. Người ta trồng Húng quế chủ yếu lấy lá làm ra ăn sống như là gia vị, kèm theo xà lách, các đĩa xào. Húng quế không thể vắng mặt trong bữa rượu thịt chó (nên còn gọi là húng chó), hoặc để trang điểm đĩa tiết canh vịt (cũng còn gọi là húng vịt).

CÂY RAU LÀM THUỐC - HÚNG CHANH

Húng chanh hay Rau thơm lông, Rau thơm, Rau tần dầy lá - Plectranthus amboinicus (Lour.) Spreng. = Coleus amboinicus Lour., thuộc họ Hoa môi - Lamiaceae. Cây thảo, hoá gỗ ở gốc, cao 25-75cm. Thân mọc đứng, có lông tơ hay có lông mềm. Lá có cuống, mọc đối, hình trái xoan, mép khía tai bèo, dài 5cm, phủ lông ở mặt trên, một lớp lông đơn tận cùng là một tuyến trong suốt, lấp lánh; ở mặt dưới, các lông tuyến này nhiều hơn và gân nổi rõ hơn. Hoa màu tía, nhỏ, xếp thành cụm hoa ở ngọn, dài, được tạo nên bởi các vòng hoa dày đặc, cách quãng nhau, gồm 20-30 hoa. Hạt tròn màu nâu nâu, hơi có lông tơ.