Chuyển đến nội dung chính

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA BỆNH CỔ HẦU HỌNG

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA BỆNH CỔ HẦU HỌNG

CHỮA BỆNH CỔ HẦU HỌNG
73 Bài thuốc

Yết hầu là một bộ phận rất quan trọng, người xưa chỉ yết hầu là bao gồm cả đường hô hấp và ăn uống. Nếu yết hâu bị đau, cần điều trị kịp thời, nếu không sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Bệnh đau yết hầu thường thấy: cổ họng bị nghẹt, có lúc sưng, nóng, đỏ hoặc hồng nhợt, nuốt nước miếng cũng đau, có khi đau không ăn uống được. Có lúc đột nhiên trong cổ bị tắc nghẹt sưng đau, nói không ra tiếng, nước nuốt không xuống là bệnh thuộc cấp tính, cần điều trị kịp thời.

1. Hầu họng tê sưng đau
Tùng dương, Cam thảo mỗi vị 1/2 lạng, Thanh đại 1 lạng tán bột, viên với hồ và giấm, ngậm mỗi lần một viên. Hoặc Thổ chu nấu lấy nước, mài Thạch giải uống; gia thêm Đơn sa, Chu sa, Thần sa để đắp ngoài cổ họng.

2. Lưỡi sưng họng đau sinh ra cục thịt thừa trong họng
Lấy quả cân bằng sắt nung đỏ, nhúng vào một chén rượu như tôi thép, lấy rượu đó ngậm nuốt dần.

3. Hầu họng đau đớn
Ngân chu, Hải phiêu tiêu đều nhau, tán bột, thổi vào họng cho nước miếng chảy ra.

4. Triều hầu phong tý (đau họng)
Hùng hoàng mài với nước giếng mới gánh về một chén mà uống hễ thổ ra thì khỏi.

5. Triều hầu phong tý (đau họng)
Lấy Nụ áo cho vào tí muối, bọc mảnh vải mà ngậm.

6. Triều hầu phong tý (đau họng)
Lá mướp, lá tỏi giã lần lấy nước mà uống.

7. Trong cổ họng mọc ra miếng thịt
Lấy miếng bông gòn tẩm muối bọc vào đầu đũa thò vào cọ xát một ngày 5 - 6 lần.

8. Cổ họng tê, cam răng
Bằng sa tán bột thổi và xát vào, nếu hầu họng sưng đau lấy quả Bạch mai trộn vào mà viên, mỗi lần ngậm một viên.

9. Tê nhiệt trong cổ họng có đờm vướng
Cam thảo sao 2 lạng, Cát cánh 1 lạng tẩm nước vo gạo một đêm, mỗi lần dùng hai đồng cân và A giao nửa cân, nước một bát sắc uống.

10. Cổ họng tê đau do độc khí
Cát cánh 2 lạng sắc uống.

11. Trong cổ họng nổi bong bóng sưng đau
Quất hồng bì ngậm sẽ khỏi.

12. Cổ họng đau 3 - 4 ngày thuộc chứng thiếu âm
Cam thảo 2 lạng, Cát cánh 1 lạng sắc uống.

13. Hầu họng tê đau
Thăng ma nửa lạng sắc uống làm cho thổ ra, nếu sưng tấy cổ thì lấy cỏ Ích mẫu còn tươi giã ra vắt lấy nước uống.

14. Cấp hầu tý phong, bất kỳ người lớn trẻ con
Huyễn sâm, Ngưu bàng 1/2 để sống 1/2 sao, mỗi vị 1 lạng uống với nước giếng mới múc về một chén đỡ ngay.

15. Họng tắc cấm khẩu
Khương hoạt 3 lạng, Ngưu bàng 2 lạng sắc lên, cho 1 tí phèn vào đổ cho uống.

16. Cổ họng tê đau, miệng mím chặt
Mã lau (tức lá cây cúc tần) hoặc rễ hoặc lá giã nát lấy nước pha vào tí giấm đổ vào cổ họng cho đờm ra sẽ mở miệng được hoặc nhỏ từng giọt vào lỗ mũi.
(Theo tra cứu thì Mã lau là loại cây huệ Iris chineusis, không phải là Cúc tần. Có lẽ cụ Lân dùng cây Cúc tần mà gọi nhằm là Mã lau)

17. Cổ họng tê đau, tắc nghẹn, không thông
Hồng hoa giã vắt lấy nước 1 chén uống, nếu không có Hồng hoa tươi thì lấy Hồng hoa khô sắc lấy nước uống.

18. Hầu họng sưng lở
Một hột Thầu dầu, Phác tiêu 1 đc, Kinh giới tuệ tán nhỏ viên với mật, bọc bông gòn mà ngậm, nuốt nước.

19. Hầu họng sưng, khó ăn, sưng liền đến cuống lưỡi
Một nắm lá hẹ, giã ra xào nóng đắp vào, hễ nguội lại đổi nắm khác.

20. Phong nhiệt đau yết hầu
Ngụm 3 hớp nước đồng tiện. Hoặc: Bạch linh, Cát cánh, Đương quy, Chích thảo, Chi tử, rễ cây mận trắng (Bạch đồng nữ căn) đều nhau sắc uống.

21. Trong họng có nhọt làm lưỡi sưng đau ngượng nghịu
Ngũ bội tử, Bạch cương tàm, Cam thảo tán bột đều nhau, Bạch mai (mỏ muối) giã ra, ngậm nuốt thì nhọt ấy tự nhiên vỡ ra.

22. Hầu tê nhũ nga tắt thở uống thuốc thì sống lại
Lấy một hạt Ba đậu giã nát, nhét vào con kén tằm, rồi nhét vào lỗ mũi, như đơn nhũ nga bên trái thì nhét vào mũi bên trái, bên phải thì nhét mũi phải, còn song nhũ nga nhét cả hai mũi.

23. Trẻ con họng sưng đau
Xác rắn đốt tồn tính dùng 3 - 4 phần hòa với sữa cho uống. Hoặc tổ ong đốt thành than, tán hòa với sữa 1 đc mà đổ vào, trẻ lớn thì hòa nước cơm cho uống.

24. Đau và tắc cổ họng
Mật cá chép, đất lòng bếp trộn đều, lấy ngón tay trỏ quẹt bôi lên cổ. Hoặc: Lá mướp rửa sạch giã với tí muối, vắt lấy nước cốt, ngậm nuốt dần, bã đắp ngoài.

25. Đau họng sắp chết chỉ còn chút hơi thở
Ba đậu 1 hạt, bỏ vỏ dùng sợi chỉ xâu vào giữa hạt nhét vào cổ họng một chốc rồi kéo hạt Ba đậu ra là khỏi. Hoặc Ba đậu gói 2 - 3 lớp giấy dày, khẽ đập cho dầu thấm ra giấy, cuộn giấy lại làm mồi, đốt cháy rồi thổi tắt, cho khói xông vào lỗ mũi, một chút thổ ra nước dãi sẽ khỏi.

26. Tắc cổ họng hơi thở không thông
Tỏi 2 củ cắt bỏ hai đầu, nếu bệnh bên trái thì nhét vào mũi bên phải, bệnh bên phải thì nhét vào mũi bên trái, máu đặc trong họng ra được là công hiệu.

27. Tắc cổ họng, thở không được, uống nước không vào
Củ Rẻ quạt 1 miếng ngậm và nuốt nước. Hoặc: Phương trên thêm chút gừng.

28. Cổ họng bỗng nhiên bị tắc, không thể đổ thuốc vào
Vỏ cây mận (lấy vỏ phần gốc) mài với nước, phết ngoài cổ, nhưng trước tiên phải lấy Bồ kết tán thổi vào mũi cho hắt hơi rồi mới phết thuốc. Hoặc: Vỏ cây đào 1 nắm, sắc nước đặc nhắp nuốt dần.

29. Cổ họng tắc nghẽn không thông
Hồng hoa giã nát vắt nước cốt, nấu uống.

30. Cổ họng đau tắc, hàm răng cắn chặt
Hạt Thầu dầu, giã nát, cuốn giấy làm mỗi đốt khói, hít vào thông ngay.

31. Đau họng muốn chết không thể dùng thuốc và châm cứu
Sơn khô đốt cho lên khói, lấy ống trúc dẫn khói hít vào cổ họng khỏi ngay.

32. Sưng to quanh cổ không thở được
Xác rắn cho vào ống tre đốt cho ra khói, thổi khói vào cổ họng là khỏi ngay.

33. Cổ họng bị tắc do phong, khó chữa
Bồ kết 1 quả sắc với nước và mật cho uống ngay, nếu còn thì phơi sương 1 đêm uống càng tốt. Nếu cấm khẩu thì cạy răng đổ thuốc vào.
Hoặc: Bồ kết 1 phân tẩm mật với rượu nướng vàng. Củ Rẻ quạt 3 phân với nghệ 1/2 phân đều tán. Trộn với rượu cho đặc như bùn, lấy lông gà phết vào trong và ngoài cổ là công hiệu.

34. Đau họng sưng tắc
Bán hạ sống, tán thổi vào mũi cho ra nước mũi là lành.

35. Đau họng nghẹt họng nguy cấp
Cỏ Tháp bút, phân bò khô đốt tồn tính hòa 1 đc với nước uống, máu ra là yên. Hoặc: Cỏ Bấc 1 nắm kẹp trong hai miếng ngói đốt tồn tính 1 thìa muối cùng thổi vào họng vài lần là yên. Hoặc: Cỏ Bấc, Hồng hoa bằng nhau, đốt ra tro, hòa 1 đc với nước uống.

36. Hầu phong, hầu tê (đau họng)
Bạch cương tàm 6 dc, Phèn chua 3 đc, Phèn phi khô 3 đc, cùng tán, 1 lần 1 đc, uống với nước gừng để gây nôn.
Trẻ em thì pha Bạc hà vào nước gừng, mửa được đờm đặc là công hiệu.
Hoặc: Bạch cương tàm sao tán, dùng quả Mơ muối giã làm viên bằng đầu ngón tay, bọc lụa mà ngậm nuốt nước dần dần.
Hoặc: Nam tinh một củ móc ruột nhét Bạch cương tàm sao 7 phân vào giã, gói giấy ướt ngoài lớp nướng chín nghiền nhỏ dùng 1 đc hòa với nước gừng uống (nếu bệnh nhân không uống được thì cạy răng đổ vào), nuốt được nước dãi thì lành.

37. Đau họng không nói được
Đậu đen nấu đặc như cao ngậm nuốt là lành.

38. Phong táo, đau họng, sưng lan ra má, thường thở ra máu
Cỏ roi ngựa 1 nắm cắt bỏ đầu, giã nát, đổ vào một chén nước vắt lấy nước cốt uống.

39. Cổ họng sưng đau không nuốt nước và cháo được, sống chết trong giây phút
Châu Thiềm tô, tán, bôi vào đầu ngón tay, thọc ngay vào đầu cuống họng, lập tức tiêu tan, rất công hiệu.

40. Cổ họng sưng, ăn uống khó
Hẹ 1 nắm giã nát xào nóng đặt vào trước cổ lấy vải nịt lại, nguội thì thay.

41. Cuống họng bỗng nhiên sưng, ăn uống không xuống
Giun đất 14 con giã nát, rịt vào cổ, lại lấy 2 con khác cho ít muối liền hóa ra nước, hòa với ít mật, uống.

42. Cổ họng sưng đau
- Tỏi bóc vỏ nhét vào tai và mũi, ngày thay 2 lần.
- Dây và lá mướp giã nhỏ với ít muối uống.
- Mộc nhĩ cây dâu lấy vào ngày Đoan Ngọ (thứ trắng vảy cá), khi dùng thì giã nhỏ, gói to bằng viên đạn tẩm mật với nước ngậm.
Hoặc: Dầu vừng một cáp đổ vào lành ngay.

43. Họng sưng đau
Bồ kết 1 quả, bỏ vỏ tẩm giấm nướng khô, lại tẩm nướng 7 lần, (chớ để cháy quá) tán, thổi vào họng, mửa được nước dãi thì khỏi.

44. Họng sưng đau
Phương trên pha 1/2 phân gừng, khuấy hồ viên ngậm.

45. Họng sưng đau
Rơm lúa nếp, đốt hứng muội, cạo muội ấy hòa giấm để vào họng sẽ cuộn hết đàm miếng ra là lành.

46. Họng sưng đau
Rễ cây Ké đầu ngựa 1 nắm, gừng già 1 củ, giã vắt lấy nước thêm rượu uống.

47. Họng sưng đau
Bồ kết tán hòa với giấm rịt vào chỗ lõm dưới hầu, khô lại thay.

48. Họng sưng đau
Ích mẫu tươi giã đổ nước mới múc vào, vắt lấy nước đặc uống, khi mửa ra được là lành, mùa đông không có lá Ích mẫu dùng gốc cũng được.

49. Họng sưng đau
Vỏ cây vải, sắc nước ngậm nuốt dần.

50. Họng sưng đau
Hạt cải tán hòa nước rịt vào dưới hầu, khô lại thay.

51. Họng sưng đau
Mầm ngải cứu non 1 nắm, giã lấy nước uống.

52. Trong họng bỗng nhiên mọc mụt sưng đau
Ý dĩ 2 phân, nuốt chửng với nước.

53. Mùa đông bị đau họng, không thể đổ thuốc vào được
Xà sàng tử, đốt cháy ra khói cho vào trong lọ để hít khói vào họng, đờm tự ra mà lành.

54. Trong họng nổi mụt, ăn uống không thông
Muội nồi, tán hoàn một viên bằng ngón tay, mỗi lần uống một viên hòa với nước mới múc, nặng thì 2 viên cũng lành.

55. Đau họng sưng lở
Hạt Gai dầu, Kinh giới tuệ bằng nhau, tán viên với mật bằng hạt nhãn, gói vào lụa ngậm.

56. Họng mọc mụn sưng đau
Mật cá trắm 1 cái, phơi khô, hoặc tẩm giấm phơi khô, một lần dùng một chút hòa với mật ong ngậm.
Hoặc: Phác tiêu tán dồn vào ruột cá trắm phơi râm lúc dùng thì lấy một ít ngậm, mửa được là lành.
Hoặc: Đởm phàn, cho vào mật cá trắm dùng như trên.
Hoặc: Cỏ nụ áo, giã với muối ngậm.
Hoặc: Chua me đất. Bồ hóng cùng giã ngậm. Có khi bệnh nhân đã chết mà tim còn nóng thì dùng lông gà chậm thuốc vào họng, gây cho chảy nước miếng được thì sống.
Hoặc: Kim ngân hoa cành với lá tươi giã vắt lấy nước 1 bát sắc còn tám phân uống. Không có tươi thì dùng hoa khô sắc đặc uống và rịt bên ngoài.

57. Đau họng, chứng nhũ nga (mụn mọc hai bên họng):
Cây Mã đề, cỏ Sẹo gà giã với quả Mơ muối, thêm rượu, nấu một lúc rồi lấy ra, lại giã và vắt lấy nước, dùng lông ngỗng phết thuốc vào chỗ đau, gây mửa đờm thì hết sưng.

58. Phương thuốc này chuyên trị chứng yết hầu, hầu ty. Những chứng đơn nga hay song nga, hầu ty chữa đều có công hiệu
- Củ cây Cầm quạt 5 đc
- Rễ cây Yết hầu 5 đc
- Rễ cây Móc méo 3 đc
- Bạch phàn phi 1 đc
* Cách bào chế: Củ cây cầm quạt rửa sạch, thái nhỏ, tẩm bằng nước gừng hoặc nước cơm sao vàng. Rễ cây Yết hầu và rễ cây móc méo sao vàng rửa sạch thái nhỏ, riêng Bạch phàn phi lên rồi hòa với 3 vị trên tán nhỏ.
* Cách dùng: Khi dùng, lấy miếng vải trắng nhỏ, khâu thành 1 cái túi nhỏ, ngang dọc mỗi bề độ 5 phân ta, túi nhúng vào nước sôi vắt kỹ cho thuốc vào trong túi, lấy chỉ buộc chặt miệng túi và để cuống chỉ dài ra độ 5 tấc ta cho người bệnh ngậm túi thuốc, tay cầm đầu cuống chỉ để túi thuốc khỏi nuốt xuống họng, ngậm độ 1 tiếng đồng hồ rồi thay túi khác.

59. Đau họng (hầu phong), Tây y gọi là viêm họng
a. Thể nhẹ: Có các triệu chứng không sốt hoặc sốt nhẹ, ho nhẹ, trong họng hơi vướng mà không đau hoặc có đau nhẹ. Dùng phương thuốc:
- Cây chua me đất 30g rửa sạch
- Muối ăn 5g
Hai thứ giã chung cho bệnh nhân nhai dần, ngậm nuốt nước từ từ.
b. Thể nặng: Bệnh phát mau chóng sốt cao và đột ngột, tiếng không trong và nặng tiếng trong họng có tiếng như kéo cưa, chân tay hơi lạnh, họng đỏ không có màng trắng rêu lưỡi dày đục, chất lưỡi đỏ mạch hoạt.
Mất tiếng đã lâu (phương kinh nghiệm):
- Cam thảo, Cát cánh, Ô mai, Ngũ bội tử sắc với nước uống.

60. Đau họng
- Cương tàm 40g
- Cây cúc áo (dạ cúc) 20g
- Bồ công anh 20g
- Lá non cây xoan đâu 3g
- Củ nghệ 12g
- Muối 4g
Tất cả các vị đều dùng tươi, hòa nước muối rửa sạch, bỏ cối giã nhuyễn, trộn với mật ong, bỏ lá chuối 2 tầng, để lên bếp than nướng chín, vứt lá chuối, bỏ thuốc vào miếng vải đã giặt sạch bằng nước sôi, vắt lấy nước cho uống.
Trẻ em mỗi lần cho uống 1 thìa cà phê, người lớn uống mỗi lần 2 - 3 thìa. Ngậm thuốc vào miệng nuốt lần lần, ngày uống 3 - 4 lần.

61. Đau họng
- Muối 10 hạt
- Lá cong tôm 10 lá
Lá cong tôm hòa nước muối rửa sạch, trộn với muối, giã nhỏ, vắt lấy nước cho uống lần lần, hoặc nhai nhỏ ngậm nuốt nước.

62. Đau họng
Mật cá tràu (càng nhiều càng tốt) dùng nước mật nhỏ giọt vào họng.

63. Đau họng
- Đọt non ngải cứu 10 - 15 đọt
- Muối 10 hạt
Đọt non ngải cứu tước vỏ ngoài, cùng với muối nhai nhỏ, nuốt nước lần lần, hoặc giã nhỏ vắt lấy nước cho uống.

64. Cổ sưng, có mụt ở trong, nuốt nước miếng đau, phát ho
1. Ngậm nước muối hột rang, trong đó đã có ngâm 1 số con ong bầu đen (ngâm càng lâu càng quý)
- Ngậm và nuốt nước từ từ
- Lại vớt ra cỡ 5 con ong, nấu cháo mà ăn
Nếu không có ngâm sẵn như trên, bắt ong sống, rang vàng, tán nhỏ, dùng ống thổi vô cổ, sau đó, bắt thêm ong sống nấu cháo với tí muối và ăn.
2. Đâm 1 nắm lá bọ xít với tí muối mà bó cổ.
3. Ngâm nước sôi với giá sống và phèn chua, uống nước đó.
4. Một nắm rau má, 1 muỗng lọ chảo gang, tí mật ong, đâm chung, vắt lấy nước, ngậm, nuốt dân.
5. Sơn đậu căn 1 lạng, Cát cánh 5 chỉ, Hàn the 2 chỉ. Nấu nước mà ngậm, nuốt từ từ.
6. Lá Nhân sâm, lá Bồ ngót, lá Khổ qua, lá Mướp đâm chung, hòa rượu mà uống.
7. Lấy cơm dẻo bọc 2 trái chanh giấy, lùi chín, gỡ bỏ cơm, dầm chanh với lá chanh non, thêm trà tàu và đường phèn chưng các món mà uống.
8. Đâm đọt và lá chùm ruột với tí muối mà bó cổ.

65. Mụt trong cổ
* Gia truyền thân phương
1. Phèn chua 1 cục, Nhện sống 1 con, Mai băng phiến 1 phân. Phi chín phèn chua trong nồi đồng, khi phèn chảy ra, bỏ nhện vô cho chín và khô đi, tán chung 3 vị cho thật mịn, dùng ống giấy xúc bột thổi vô cổ cho bể mụt là khỏi ngay.
2. Đốt ra than 1 cọng lông ngỗng, tán mịn, thổi vô cổ.
3. Đâm củ chuối hột với muối mà ngậm.
4. Nhai lá chùm ruột mà nuốt nước từ từ.
5. Đâm đọt cây phù dung với muối mà ngậm.
6. Sắc cây đậu săng, lấy nước mà ngậm.
* Mã đao yết hầu (mụt phát lên dữ dội, chết người cấp kỳ)
- Rau dệu 1 nắm
- Cây gạc nai 1 nắm
- Đọt bông trang rừng 1 nắm
- Lá thiền liền 1 nắm
Các món đâm chung với tí muối mà đắp vào cổ.
* Song đao yết hầu (nổi 2 mụt 2 bên cạnh yết hầu)
* Bài 1:
Hột hẹ tán nhỏ 1 nhúm
Sữa người sinh con so 1 chén chung
Lòng trắng trứng gà so 1 cái
Hiệp chung 3 món trong vải the, vắt lấy nước mà ngậm, xác đắp ngoài cổ.
* Bài 2:
Cỏ Mần trầu 1 bụi, Đường thẻ 1 cục. Đâm vắt nước ngậm và nuốt từ từ, chừng 15 phút bể mụt, máu mủ ra là hết.
Nghe thông cổ vì dập mụt rồi
- Tiền hồ 2 chỉ
- Cát cánh 3 chỉ
- Sa sâm 3 chỉ
- Xuyên khung 2 chỉ
- Cam thảo 1,5 chỉ
- Độc hoạt 1,5 chỉ
- Khương hoạt 2 chỉ
- Chỉ xác 1,5 chỉ
- Liên kiều 3 chỉ
- Phục linh 3 chỉ
- Sài hồ 2 chỉ
Sắc 4 chén còn 1 chén mà uống. Uống 4 - 5 thang là mạnh.
* Độc đao yết hầu (Chỉ nổi 1 mụt ngay giữa yết hầu):
Dùng thuốc theo thứ tự
* Bài 1: Nhúm rễ cây vú bò mài với nước gạo lức vo mà uống.
* Bài 2: Phác tiêu 2 chỉ, Bạch phàn phi 1 chỉ. Tán nhỏ thổi vô cổ cho ói đàm nhớt.
* Bài 3: Cam thảo 2 chỉ, Hàn the 1 chỉ. Ngậm nuốt nước từng chút cho êm cổ.
* Bài 4: Mao căn 5 chỉ. Sắc uống cho mát, mau lành.

66. Tràng nhạc - loa lịch
- Liên kiêu 2 chỉ
- Ngưu bàng 2 chỉ
- Cát cánh 2 chỉ
- Xuyên khung 2 chỉ
- Tiền hồ 2 chỉ
- Sài hồ 2 chỉ
- Khương hoạt 2 chỉ
- Độc hoạt 2 chỉ
- Chỉ xác 2 chỉ
- Thổ phục linh 3 chỉ
- Cam thảo 5 phân
Sắc 4 chén còn 1, chia uống 2 lần, uống vài ba thang, thấy dễ chịu, uống thêm.

67. Bệnh tiêu hạch
Trẻ con gầy còm, hoặc sau khi phát nóng, nơi cổ nổi hạch, gọi là hạch sưng cổ người lớn, lúc đầu chỉ có vài ba hột nhỏ ở cổ, rờ nhẹ thấy chuyển động, xê dịch qua lại, lúc nặng hơn vì để lâu ngày, hạch lớn lên (cổ to) và rờ rất cứng.
* Bài 1: Khoai môn, khoai sọ gọt lấy vỏ, đâm sơ sơ, chà lên đó, chà vỏ 1 lúc rồi đắp luôn lên mụt (có ngứa da, sau rửa nước nóng là hết).
Chà và đắp ngày 2 - 3 lần, 1 - 2 ngày sẽ tiêu hạch.
* Bài 2: Nếu hạch lâu ngày, lớn và cứng thì ở ngoài chà và đắp vỏ khoai như trên, ở trong ăn khoai sọ, khoai môn như sau:
- Khoai sọ cạo sạch vỏ, xắt nhỏ 2 lạng
- Côn bố 1 lạng
Hai vị nấu chín với đường mà ăn mỗi ngày, trong vài ngày hạch sẽ tan lần.
* Bài 3: Toa dùng cho bệnh nào suy nhược quá
- Bắc huỳnh kỳ 2 chỉ
- Hồng táo 10 trái
- Khoai sọ 5,6 miếng
Nấu cho thật chín với ít đường mà ăn, uống cả nước
Dùng lâu ngày sẽ thấy công hiệu.
* Bài 4: Nấu hải tảo (rong biển) với thịt vịt, xương heo mà ăn nhiều lần.

68. Viêm xoang
Cọng lá sen, lấy 15 cm dưới lá, phơi thật khô, làm thuốc hút, tuần đầu 2 cọng, các tuần sau 1 cọng. Hút nhiều hơn thì say.

69. Viêm xoang
Cà gai leo, lá lốt mỗi vị 2 lạng, Kim ngân hoa, Bồ công anh, Sài đất mỗi vị 1 lạng. Nếu mủ nhiều thì thêm 1 lạng dây Bạc thau.

70. Viêm xoang
Hột nhãn, Bồ kết tán bột, vấn thuốc điếu hút phà khói ra.

71. Viêm họng
- Quả na điếc (đốt tồn tính) 50g
- Bạc hà (lá) 50g
- Hạt gấc lấy nhân 20g
- Lá táo 25g
- Củ rẻ quạt sấy khô 30g
- Lá chanh 25g
- Sinh địa sấy khô 50g
- Cam thảo 25g
- Đường (nấu thành châu luyện với thuốc) 150g

72. Viêm xoang
- Cà gai phơi khô 3 lạng
- Lá lốt khô 1 lạng, tươi 2 lạng
* Cải tiến:
- Ngâm hoa giấy 1 lạng
- Bồ công anh 1 lạng
- Sài đất 1 lạng
Hai ngày uống 1 thang trên.
- Nếu mủ nhiều gia thêm dây Bạc thau 1 lạng. Mủ chân răng 3 ngày khỏi. 7 năm viêm xoang có chọc mủ v.v... uống 7 thang khỏi.
Viêm xoang và các chứng viêm khác
Dây cà gai leo 3 lạng, lá lốt và dây lốt 2 lạng. Uống rất hay song có khi tim đập nhanh thì gia thêm: Sài đất 1 lạng, Bồ công anh 1 lạng, Kim ngân 1 lạng. Mủ nhiều gia thêm dây Bạc thau 1 lạng.

Trích từ sách: TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN 
của Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng 
do NXB Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh ấn hành


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.