Chuyển đến nội dung chính

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA TÁO BÓN

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA TÁO BÓN

CHỮA TÁO BÓN
36 Bài thuốc

Táo là do huyết mạch khô ráo, trên thì tân dịch khô kiệt, da đẻ khô nhăn, râu tóc quăn cứng; dưới thì bụng đau, tiểu sẻn đỏ, táo bón; nặng lắm thì cứng đờ. Đây là bệnh táo vì ăn nhiều đồ rán, nướng, cay, sắc dục quá độ, hoặc lúc bệnh uống nhiều thuốc công phạt hoặc cho phát hãn, hạ lợi thái quá, làm khô kiệt tân dịch, tinh huyết hao tổn rồi sinh táo.

Táo bón là không đi cầu được vì đói no thất thường, nhọc mệt quá độ, tổn hại đến vị khí lại còn ăn đồ cay nóng, ngon béo để tạng thận hỏa độc, hỏa độc làm hao tổn chân âm, tân dịch kém sút không thấm nhuần được, nên sinh táo bón.

Nội kinh chia táo bón ra làm 5 chứng phong, khí, hàn, nhiệt, thấp. Lại có người già khí hư, tân dịch không tư nhuận mà táo bón. Lại thêm sinh đẻ mất máu, tân dịch khô kiệt mà táo bón, các chứng đều có nguyên nhân, nên phân biệt mà chữa, mới không làm người bệnh chết oan.

Phép trị chủ yếu là bổ huyết, sinh tân, bổ phế, nhuận tràng.

1. Huyết hư, phổi ráo, da khô, táo bón
- Thiên môn đông, dùng nhiều ngâm với nước sôi cho nở ra, bỏ lõi và vỏ, nấu còn 1/2, dùng khăn vải đùm lại vắt lấy nước rồi cho vào nồi nhỏ, nhỏ lửa, cô thành cao.
Mỗi lần uống 2 - 3 đc, lúc đói với nước trà, dần dần sẽ đỡ.

2. Phong nhiệt ở đại tràng táo bón, người nhiều tuổi nên uống phương này
- Bồ kết (bỏ hạt), Chỉ xác (bỏ ruột) đều nhau, sao tán, luyện mật làm viên bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 70 viên, lúc đói với nước cơm hay cháo rất hay.

3. Khí kết ngực đầy, khí nghịch xông lên táo bón
- Chỉ xác (bỏ ruột) sao, Mộc thông sao, Thanh bì (bỏ ruột) sao, Trần bì sao, Tang bạch bì (kỵ sắt, sao mật), hạt Cải củ sao qua, hạt Bìm bìm sao, Hồi hương sao, Nga truật nướng, Tam lăng sao.
- Các vị đều nhau, tán, giã vắt lấy nước chừng 1/2 bát, khuấy hồ với bột gạo, viên bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 20 viên với nước Trần bì.

4. Người tráng kiện bị khí huyết kết nhiệt, táo bón
- Hương phụ sao muối 2 lạng, Chỉ xác bỏ ruột sao 5 đc, Đào nhân (bỏ vỏ và đầu nhọn) 5 đc, Ô dược 5 đc, hạt Tía tô sao 5 đc, tán chung, mỗi lần uống 2 đc với nước Trần bì lúc đói.

5. Người già yếu táo bón
- Hành trắng (cọng và rễ) 10 nhánh, sắc với nước mới múc, bỏ hành, cho 2 đc cao da trâu và 1 chén mật vào nấu cho chảy tan, uống nóng cách bữa ăn.
- Hạt Tía tô 1/2 cáp, hạt Vừng 1/2 cáp nghiền chung cho nát, đổ 1 bát nước vào khuấy đều, lắng lấy nước cốt, nấu cháo gạo trắng ăn rất hay.

6. Táo bón
- Hành trắng (cọng và rễ) 3 nhánh, gừng sống 1 củ bằng ngón tay, Đậu xị 21 hạt, muối 1 nhúm, giã chung cho nát làm thành bánh hơ nóng chườm trên rốn, nguội lại hơ thì chườm nữa.
- Quả Bồ kết, cho vào nổi rang, đốt lên khói, ngồi trên miệng nồi mà xông thì hết.

7. Người yếu do lo rầu quá hại phế khí, phế và đại tràng tương quan biểu lý với nhau cho nên phế có bệnh là đại tràng sẽ bế tắc, hoặc do dùng nhiều đồ cay nóng sinh ra táo bón
- Trần bì bỏ cùi trắng, Tía tô lấy cành lá non, Chỉ xác bỏ ruột sao qua, Mộc thông bỏ mắt đều nhau, sắc uống nóng.

8. Phương thuốc nhuận khí lợi ruột, trị táo bón
- Hạt Tía tô, hạt Gai dầu, đều nhau, giã nhỏ, khuấy nước lọc bỏ bã, nấu cháo gạo ăn.

9. Đại tiện bí kết đến nỗi hôn mê bất tỉnh
- Ốc nhồi, 2 - 3 con, dùng cả vỏ, muối 1 chén con, cùng giã nát đắp vào rốn dày 1 tấc 3 phân, dùng vải buộc chặt là khỏi.

10. Táo bón, phân tắc trong ruột sưng đau không thông
- Đào nhân 1 lạng, luộc chín ăn lúc đói, độ 1/2 ngày thì sôi bụng đi ra hết chất độc.

11. Bí đại tiện do có thấp nhiệt trong trường vị
- Binh lang 1 hạt, tán, 1 lần dùng 1 đc, hành 3 củ thái mỏng, nước tiểu trẻ em 1 bát cùng sắc uống
Hoặc dùng Binh lang 3 đc, 1/2 nước, 1/2 mật nấu làm thang uống nóng.

12. Truyền trị chứng bụng trướng đây, đại tiện bí kết
- Nghệ vàng sao khô, tán, mủ cây vú bò, cùng giã nhỏ, viên bằng hạt đậu xanh, 1 lần uống 3 viên.

13. Truyền trị đại tiện không thông
- Củ rẽ quạt già 3 đc hòa 1 bát nước, lọc bỏ bã uống.
- Ô mai 10 quả, gỡ bỏ hạt lấy cơm, tẩm nước nóng, viên lại bằng quả táo, đem nhét vào hậu môn.

14. Truyền trị chứng táo kết bụng trướng lên, mặt vàng mà sưng, ợ chua ăn không được
- Gạo nếp 6 đc, Can khương 1 đc, vỏ quít 5 phân, Ba đậu 2 hạt, cùng sao vàng rồi sàng bỏ Ba đậu, lấy 4 vị kia tán, viên với hồ bằng hạt đậu xanh, 1 lần 5 - 7 viên uống sau bữa ăn với nước sắc gừng và tía tô.

15. Táo bón
- Hòe hoa, phơi khô tán, 1 lần 1 đc, hoặc ăn sống cũng công hiệu.

16. Táo bón
- Hành trắng cả rễ 1 nhánh, gừng sống 1 củ, muối 1 nhúm, đậu xị 2 hạt, cùng giã nát làm thành bánh, nướng nóng đặt vào rốn băng chặt lại, hồi lâu nóng thấu vào là thông, chưa thông lại làm nữa.

17. Táo bón
- Chỉ thực sao qua, Bồ kết bỏ hạt và vỏ đen, đều nhau, cùng tán, mỗi lần 1 đc uống với nước cơm hoặc quết với cơm làm thành viên mà uống với nước cơm.

18. Táo bón
- Mủ trắng cây vú bò, bồ hóng bếp giã chung, viên bằng hạt ngô đồng phơi khô, 1 lần uống 1 viên, sắc 1 lát gừng và 1 bát nước làm thang uống dần, hết thuốc là đi cầu được.
Thuốc này người già không dùng được.

19. Táo bón
- Hạt Bìm bìm tán, rây lấy lớp bột dầu, 1/2 sống 1/2 sao, uống với nước gừng, chưa thông lại uống.

20. Táo bón
- 1 phương khác gia thêm Chỉ xác sao, đều nhau, tán luyện mật viên bằng hạt ngô đồng, uống 70 - 80 viên với nước nóng.

21. Đại tiện bí kết
- Cao da trâu 3 tấc, hành trắng 1 nắm, sắc với 4 bát nước còn 1/2 bát, hòa chén mật uống thì đi cầu được.

22. Người già bị phong hư mà táo bón
- Bồ kết lâu ngày, đốt tôn tính, đổ ra đất, úp bát lại 1 đêm, tán, hòa rượu, uống.

23. Truyền trị đại tiện bí vì phong
- Tật lê sao 2 lạng, Tạo giác, tẩm mật hoặc váng sữa, nướng 5 đc, tán 1 lần 1 đc, uống với nước trà hay nước muối.
- Phương khác dùng Tạo giác, không dùng Tật lê.

24. Kinh phương trị đại tiện bí vì phong và khí
- Hạt củ cải 1 cáp, ngâm nước nghiền nhỏ, hòa với bột Bồ kết 2 đc, uống.

25. Phép thông khoan bằng dầu
- Hành trắng, giã nát lấy nước bôi khắp ngoài ống tre, đút vào hậu môn, lại lấy dầu vừng bằng 1/2 phần nước hành, trộn đều đổ vào bong bóng lợn, để người bệnh nằm ngửa, co chân lên, đưa nước thuốc trong bong bóng lợn dốc vào trong ống tre cho chảy vào hậu môn là đi cầu được ngay.

26. Thông khoan bằng mật
- Dùng mật cô đặc như keo thừa lúc đang nóng vắt thành thỏi dài bằng ngón tay, chấm bột Tạo giác vào đầu nhọn, nhét vào hậu môn, chốc lát đi cầu được.
- Dùng hành giã nát bôi vào cuống lá dong rồi đút vào hậu môn.

27. Thông khoan bằng mật lợn
- Dùng 1 cái mật lợn để lấy 1 phân nước mật, gia giấm ngon vào trộn đều, dùng ống tre đút vào hậu môn rồi tiếp cái mật vào ống tre cho nước chảy vào.

28. Thông khoan bằng gừng
- 1 củ gừng lấy móng tay cạo bỏ vỏ, bôi nước muối vào, đút vào hậu môn, là đi cầu được.

29. Nhuận tràng
- Rau mồng tơi 50g
- Rau đay tươi 100g
- Khoai sọ sạch vỏ 1 - 2 củ
Ba vị trên nấu canh ăn hàng ngày, dùng trong 2 - 3 ngày.

30. Nhuận tràng
- Cỏ mực 400g
- Lá muồng 100g
- Mắc cỡ 200g
- Mè đen 200g
Ngày uống 5 viên vào buổi tối.

31. Bổ âm nhuận tràng
Công thức do cụ Phó Đức Thành cấp, có:
- Bột lá dâu bánh tẻ 0,20g
- Bột vừng đen 0,15g
- Mật ong cô lại 0,30g
Dược tính: của 3 dược liệu trên.
1. Tang diệp: Lá dâu bánh tẻ (không già không non) có tính mát, vị hơi ngọt, trị phong thấp, mát phổi, sáng mắt, trị ho, trị nọc rắn độc, chữa sốt, mồ hôi trộm, cảm mạo, trị đờm, cao huyết áp, trị thổ huyết, hàm miệng mụn nhọt, trị bàn tay lên đinh. Đặc biệt là bổ: ăn được, ngủ được, giảm mệt mỏi, ông Hồ Tăng nói: tằm ăn lá dâu nhả tơ, tơ dệt thành gấm, người ăn lá dâu xanh sống lâu.
2. Vừng đen: Tây dược lấy dầu vừng thay dầu olive, dầu vừng có ở trong dược điển của Đức và Thụy Sĩ từ 1910, vừng đen bổ âm, mát, nhuận tràng, (ta nấu chế ma phù) ăn dầu vừng với cháo, chấm thịt gà.
3. Mật ong: lấy ở ong nuôi hay ong rừng, mùa mật ong là mùa hoa, do ong lấy nhị làm mật, có thuyết nói nhị hoa cây độc thì mật độc, lại có thuyết nói ngược lại, nhị hoa cây độc không làm cho mật độc, (thuyết này có lý hơn).
Người ta chưa phân tích được rõ ràng mật ong, chỉ biết đại khái có glucose, levulose (70 - 75%) một ít acide formique, các vị thơm, các chất màu, các chất sáp, chất đạm.
* Công dụng mật ong: Bổ nhất cho các cháu và người ho. Người ta chưa biết được mật ong có những chất sinh tố gì của hoa mà bổ, mật ong làm mát phổi, nhuận tràng, gần đây còn dùng để trị đau bụng kinh niên.
* Cách pha chế thuốc bổ âm nhuận tràng: Chọn lá dâu bánh tẻ bỏ lá sâu, vàng thối, rửa sạch, cho vào rổ rũ hết nước, phơi âm can (6 - 7 ngày hay sấy nhẹ độ 40 - 50, tay rửa cồn, vò, tuốt bỏ cọng lá tán thành bột xanh (lá mạ), đậy kín, nên bảo quản tránh nắng và ẩm, sấy nhẹ lửa (50C).
Vừng đen rửa sạch, vấy bớt nước, sấy (60°C) trước khi tán nên rang qua rồi tán với bột lá dâu (lá dâu ngâm dầu vừng).
Mật ong cô lại cho đặc.
3 dược liệu chuẩn bị xong, trộn với nhau luyện làm viên nặng độ 0,65g, sấy nhẹ lửa (60 - 70°C) 3 lần, làm 3 ngày thì tốt. Để nguội cho vào lọ kín (có đựng bông hút nước) hay để vào tủ có vôi miếng để bảo quản tránh ẩm.
* Liều lượng: Người lớn uống 10 đến 16 viên/lần, ngày 3 lần, liều lượng có thể tăng giảm tùy theo bệnh nhân, nếu bệnh nhân táo quá trước khi uống Bổ âm nhuận tràng nên uống viên mật lợn hay mật bò (độ 8 - 12 viên 0,1g) 1 ngày.
Kết quả nghiên cứu cho thấy bài thuốc có tác dụng bổ âm và trị táo bón tốt, bệnh nhân ăn được ngủ được làm việc bớt mệt (thí nghiệm trong mùa hè), tuy nhiên có những bệnh nhân bị đầy bụng.
Liều dùng trung bình là 20 ngày.
* Kết luận: Bổ âm nhuận tràng tốt, rẻ tiền có thể phổ biến sản xuất phục vụ nhân dân.
* Chú thích: Nếu không có mật ong ta có thể dùng kẹo mạch nha, si rô đơn hay hồ nếp nhưng tác dụng bị giảm (tuy giá thành hạ hơn mà uống lâu không có hại), phụ nữ bị táo bón uống rất hợp.

32. Bí đại tiện
- Bồ kết, bỏ hột nướng giòn 30g
- Xà phòng giặt (cục) 30g
Tán Bồ kết đã xay nhỏ, quết với xà phòng cục làm tọa dược cho vào hậu môn có công hiệu.

33. Bí đại tiện
- 8 con ốc lá
- Muối đen 1 nhúm
- Tiêu 1 nhúm
Giã nát, sao nóng, bó sau lưng: Đi tiêu tức thì.

34. Bí đại tiện
- Đại hoàng 1 đc
- Chỉ xác 1 đc
- Cam thảo 5 phân
Liều lượng trẻ dưới 5 tuổi dùng 8g trong ngày
5 - 10 tuổi: 12g
10 - 15 tuổi: 16g
> 15 tuổi: 20g
Thừa khí thang
- Đại hoàng 1 đc
- Hậu phác 1 đc
- Chỉ thực 1 đc
- Sinh khương 3 lát
Sắc uống.
Thừa khí dưỡng doanh thang.
Như thang trên gia thêm:
- Tri mẫu, Bạch thược, Đương quy, Sinh địa.

35. Bí đại tiện (người lớn và trẻ em)
Đau lâu, bí đại tiểu tiện 15 - 20 ngày, linh dược 100%.
Cắt rễ Lục bình dưới sông rạch, rửa sạch, để trong 1 cái tô, nghiền cho nhuyễn với vài hột muối (nhiều/ít tùy người lớn hay nhỏ), banh mỏng ra, đắp từ dưới rốn xuống sát ba đì, 20 – 30 phút sau thấy linh nghiệm liền.

36. Thuốc xổ thông lợi
- Đại hoàng 8g
- Chỉ xác 12g
* Chú trị:
- Bí đại tiện, táo kết sốt cao mê sảng
- Ứ máu phát sốt, tích kết ngăn trệ ợ hơi, hôi mồm, kiết lỵ
* Liều dùng:
Người lớn: ngày dùng 3 lần: sáng 10g, trưa 5g, chiều 5g
Tả hỏa, hạ nhiệt, thông lợi ứ uất mỗi ngày từ 8g - 12g
Trẻ dưới 5 tuổi: dùng 8g trong 1 ngày để xổ
5 - 10 tuổi: 12g
10 - 15 tuổi: 16g
> 15 tuổi: như người lớn
* Hạ nhiệt: dùng 1/2 hay 2/3 liều trên
* Cấm dùng: Lạnh dạ, tiêu chảy, phân lồng không tiêu
* Ghi chú: Thuốc đắng dễ gây nôn, uống dần từng thìa
Nếu nôn hòa thêm đường
Nếu đã đi cầu được không nên uống nữa
Thuốc này đi tiểu, nước tiểu vàng đỏ.

Trích từ sách: TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN 
của Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng 
do NXB Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh ấn hành


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.