Chuyển đến nội dung chính

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA SINH KHÓ, BỒI DƯỠNG SAU SINH

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA SINH KHÓ, BỒI DƯỠNG SAU SINH

SINH KHÓ
13 Bài thuốc

1. Sinh khó
- Sừng linh dương 1 cái, cưa lấy chỗ đầu nhọn, tán nhỏ, uống với rượu 1 thìa thì dễ sinh. Khi trở dạ, lấy hàm thiếc ngựa mà nấu uống 1 chén thì sinh ngay, hoặc lấy tổ tò vò hâm nước sôi uống, hoặc lấy cây Ích mẫu giã vắt lấy nước nấu còn 1/2, lấy mực tàu tốt nướng, tán, hòa uống, hoặc mai rùa, mai ba ba, đều đốt tồn tính, tán, uống với rượu 1 thìa là dễ sinh.

2. Sinh khó, thai chết, sinh ngang, sinh ngược
Đậu đen sắc với nước giữa dòng, 2 lạng Xuyên quy, 1 lạng Xuyên khung, tán, thêm đồng tiện 1 bát to, hòa đều với thuốc tán, chia làm 2 lần uống, chưa thấy công hiệu lại uống.

3. Sinh ngang, sinh ngược
- Nhân sâm, Nhũ hương đều 2 đc; Đan sa 5 phân đều tán nhỏ, trứng gà 1 quả, lấy lòng trắng thêm 1 thìa nước gừng, hòa đều uống, mẹ con an toàn.

4. Rặn đẻ không ra
- Bồ hoàng 2 đc, uống với nước giếng ban mai.
- Hồng hoàng nấu với rượu, gạn lấy nước, giã Sinh địa, vắt lấy nước hòa đều, uống nóng.
- Minh phàn 7 phân, hòa với giấm để lâu, uống, rặn ra ngay.

5. Sinh ngang, sinh ngược không thuận chiều
- Toàn bộ cái xác rắn, bọc đất nhão, nung, nghiền nhỏ, sắc vỏ du mà uống, ngoài lấy muối xát vào bụng sản phụ với gan bàn chân đứa trẻ.
- Hạt Mã đề, hạt Tơ hồng, đều nhau, sao, tán, mật ong, dầu vừng cùng đun sôi, hòa thuốc tán cho đều, uống.

6. Rặn đẻ không ra, bụng trướng khổ sở
- Bột sừng hươu 3 phân, uống với nước gừng, ngoài lấy nước lã hòa giấm phun vào mặt, thần hiệu.

7. Chuyển dạ 2 - 3 ngày không sinh, sản phụ khí không lưu lợi, con chuyển ngang
- Đương quy 3 đc, Xuyên khung 2 đc, Chỉ xác 2 đc bỏ ruột, lá Tử tô, củ gấu, Đại phúc bì, đều 1 đc, Cam thảo 7 phân, con không ra thì theo phương trước dùng gấp đôi lên.

8. Nhau không ra
- Giấm hòa với 3 lòng trắng trứng gà, uống.
- Đâm nhừ lá và cọng cây Ích mẫu, uống từ từ (Phương này cũng dùng trục thai chết ra).
- Đâm 9 hột đu đủ tía mà bó ngón chân cái và rịt vào 2 gan bàn chân của sản phụ. Sinh xong, lau thật sạch các chỗ bó thuốc.

9. Thai chết trong bụng
- Bắc 2 lượng Hồng hoa: 3 chén lấy 9 phân, chia làm 2, uống lần 1 nếu hài nhi ra thì đổ bỏ thuốc còn lại, nếu chặp lâu mà không thấy ra, uống luôn cho hết. Lưu ý: lo sẵn bột đậu xanh, khi hài nhi ra xong, hòa bột với nước cho uống để giải hết thuốc còn tổn đọng trong bụng.

10. Nếu mẹ mặt đỏ lưỡi xanh, thì con chết trong bụng; mặt và lưỡi của mẹ đều xanh, 2 mép chảy nước dãi thì tánh mạng mẹ và con nguy hiểm. Nếu môi và lưỡi đều hồng thì mẹ con đều sống
* Phương 1:
- Đâm 1 nắm lá mãng cầu xiêm với muối, bó 2 đầu ngón chân cái thì hài nhi ra.
* Phương 2:
- Đâm 1 nắm lá lài dây, vắt nước cho uống.
- Xác đặt trên đỉnh đầu (xoáy ngọ) cho rút khí lên, hài nhi xổ ra mau hơn.
- Ngưu tất (cỏ xước) 1 lạng, sắc 2 chén còn 1 cho uống.
Ngừa bị nhau lá
- Sinh vừa xong, đâm 2 tép tỏi, chế nước nóng, cho sản phụ uống liền.
Sinh mà ra huyết trước
- Nhai 1 mớ lá cỏ mực tía mà nuốt nước là hết.
Sinh xong, huyết ra mãi không sạch
- Bồ hoàng 3 lạng, sắc 5 chén còn 2, uống 1 lần.
- Ngũ linh chi, Bồ hoàng đều 6 chỉ, sao đen, tán nhỏ, chia uống 4 - 6 lần.

Thuốc uống khỏi nằm lửa

1. Trước sinh 10 ngày, làm 20 lít nếp cơm rượu, vắt lấy nước để dành uống. Sinh xong, mua 1 hoàn Ô kim và 1 hoàn Tô hợp. Uống liền Ô kim cho trục hết máu xấu, sau 1 ngày 1 đêm, uống Tô hợp. Chỉ uống 2 hoàn này, không uống gì khác. Hằng ngày ăn cho mẹ được ấm, bổ sữa tốt.

2. Một miếng thịt gà, heo nạc xắt nhỏ xào và thêm vô tí nước cơm rượu, cho 1 ít nước lạnh, xào lại cho nóng, ăn với 1 ít gừng đâm nhỏ.

3. Toa thuốc rượu
- Củ lài dưa 1 lạng
- Dây cứt quạ nhỏ lá 5 chỉ
- Ngải mọi 1 lạng
- Rễ nhàu 5 chỉ
- Gừng khô 1 lạng
- Rễ củ đèn 5 chỉ
Sắc mỏng các vị, sao vàng, ngâm với 1/2 lít rượu, 24 giờ sau, lọc bỏ xác. Mỗi lần uống từ 1 - 3 muỗng cà phê, ngày uống 2 lần sau bữa cơm, uống luôn 7 ngày. Phụ thêm: xoa bóp bằng dầu long não.

Bồi dưỡng sản phụ sau khi sinh

1. Uống nước tiểu còn nóng của bé trai dưới 12 tuổi mạnh khỏe
- Lấy 60ml nước tiểu giữa, bỏ đầu và cuối.

2. Rau má tươi cả rễ 50g, lòng đỏ trứng gà 1 cái, đường 15g, Gừng tươi 35g
- Rau má với gừng giã nhỏ, vắt lấy nước cốt, thêm nước, vắt cho hết, nấu sôi vài đạo. Cho lòng đỏ và đường quậy đều, uống nguội. Ngày uống 2 lần từ 8 giờ đến 15 giờ, liên tục 15 - 30 ngày.

3. Cật heo 2 cái, gạo tấm 40g nấu cháo
- Cật heo bỏ màng trắng, thái nhỏ, trộn chút rượu, muối, khi cháo chín bỏ vô, thêm hành tiêu, ăn nóng, ăn trong 3 tuần.

4. Thịt dê, gà 100g, Gừng tươi 25g, Đương quy 40g
- Ba món tần kỹ với tiêu, muối, gia vị vừa đủ, ăn cả cái lẫn nước, càng nhiều càng tốt.

5. Nghệ xanh 40g, gà giò 1 con
- Gà nhổ lông, để nguyên, bỏ lòng, chưng cách thủy mà ăn.

Trích từ sách: TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN 
của Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng 
do NXB Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh ấn hành


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.