Chuyển đến nội dung chính

CÂY RAU LÀM THUỐC - CHUỐI

CÂY RAU LÀM THUỐC - CHUỐI - Musa spp

Chuối - Musa spp. thuộc họ Chuối - Musaceae là những toài cây ăn quả được trồng phổ biến ở nước ta.

Chuối có thân giả do những bẹ lá dài hình máng bó lấy nhau thành một khối hình trụ. Khi cây Chuối còn non, ta ăn nõn Chuối, chính là nõn thân giả; còn thân thật là phẫn nằm đưới đất mà ta thường gọi là củ Chuối; khi chuối ra buồng, ta mới thấy một cuống của cả cụm hoa từ củ Chuối vọt lên đưa dần buồng Chuối lên cao.

Chuối trông được tạo thành do kết quả của sự lai tự nhiên giữa hai loài Musa acuminata và Musa balbisiana. Ngày nay, người ta ước lượng có đến 200-300 giống Chuối hiện được trồng trên thế giới. Ở nước ta, có nhiều giống Chuối trồng khác nhau, phân biệt bởi hình dạng của quả, độ dày và màu sắc của vỏ quả, mùi vị và màu sắc của thịt quả ... Có thể sắp xếp các giống phổ biến thuộc hai nhóm:

- Nhóm giống Chuối tiêu (Chuối già) có đến 5 giống mà phổ biến là giống lùn cao và lùn thấp là giống Chuối ăn tươi điển hình có hột chuyển hết thành đường, dễ tiêu hoá.

- Nhóm giống chuối tây (Chuối sứ) quả to và ngắn hơn Chuối tiêu, vỏ cũng mỏng hơn. Giá trị calo cao hơn Chuối tiêu, nhưng nhiều bột hơn, nên có thể luộc, có thể chiên. Dùng làm rau (nõn thân giả, hoa chuối) ít chát hơn chuối tiêu.

Còn có các giống Chuối khác như Chuối bôm, có quả hơi chua nếu chưa chín kỹ, buồng nhỏ; Chuối bột không ăn tươi mà để lấy tinh bột; Chuối ngự, Chuối cau Có quả nhỏ ngắn, vỏ mỏng, thật thơm ngon nhưng khó vận chuyển và buổng nhỏ, sản lượng lại thấp...

Chuối dễ trồng, tốn ít công, thu hoạch luân chuyển có quả quanh năm. Chuối chín thuộc loại quả ngon có nhiều giá trị dinh dưỡng. Quả chuối xanh chứa 10% tinh bột, Chuối chín chứa 16-20% glucid, 1,2% tinh bột, 0,5% lipid, 1,32% protein. Trong 100g quả chuối có 8mg calcium, 28mg kalium, 0,6 sắt và các vitamin: 0,12mg caroten, 0,04mg vitamin B1; 0,05 vitamin B2; 0,07mg vitamin PP và 6mg vitamin C.

Quả chuối xanh có thể thái mỏng dùng ăn với mắm cá, dùng luộc ăn, làm đồ chay và nấu giấm ốc và đậu phụ. Bắp Chuối, nõn Chuối góp phần vào thành phần rau ghém, dùng để trộn gỏi, để ăn độn với các món ăn khác. Rau ghém rất thông dụng và được nhiều người ưa thích. Có thể làm rau ghém bằng bắp chuối hột và chuối xiêm (chuối sứ) còn các thứ chuối khác đều có vị đắng. Bắp chuối dùng thái lát thật mỏng như thái lá thuốc, được ngâm trong nước có chanh hay khế rồi rửa sạch, để ráo, trộn với các lọai rau thơm, rau húng quế, rau răm xắt nhuyễn dùng để ăn ghém hay làm nộm ăn ngon. Cũng có thể dùng thân cây Chuối hột hay Chuối xiêm còn tơ (chứa trổ quầy), lấy lõi giữa của thân (thực ra các bẹ của lá Chuối xếp vào nhau tạo thành) đem xắt thành từng khoanh thật mỏng rồi cũng ngâm trong nước lã pha chanh hay khế chua, sau đó rửa sạch, để ráo nước, rồi đem trộn với các loại rau thơm khác. Rau ghém bắp chuối cũng như thân chuốt, dùng để trộn gỏi gà, gỏi ốc, gói tép hoặc ăn độn với bún riêu, bún nước lèo, bún cà ri...

Bắp chuối (phần đầu ngọn của cụm hoa chuối) không trổ hết, cũng thái nhỏ, luộc chín, trộn với muối vừng hay muối lạc rang cho phụ nữ ít sữa ăn vài ba bữa liền thì có nhiều sữa và nhuận tràng; cũng dùng tốt cho người già trị táo bón.

Nước trong cây Chuối (đùng lóng nứa tép đóng vào mà hứng) làm thuốc thanh nhiệt giải khát chữa nóng quá sinh cuồng. Chuối xanh phơi khô ở nhiệt độ thấp rồi tán bột ăn hàng ngày, kích thích sự tăng trưởng của màng nhầy lót bên trong dạ dày bằng cách tạo thêm những tế bào sản xuất chất nhầy, không những nó làm cho màng nhầy dày lên đúng mức để tránh không bị lở loét dễ dàng mà còn làm cho lớp màng nhầy dày lên đến mức có thể hàn gắn nhanh chóng bất kỳ chỗ loét nào hiện có.

Ở Ấn độ, người ta đã dùng chuối xanh để điều trị những bệnh nhân bị loét dạ dày có kết quả rõ rệt. Vì vậy, một khẩu phần ăn có chuối xanh chắc chắn giúp tránh được bệnh loét dạ dày.

Quả Chuối xanh lúc còn non, còn có tác dụng chữa hắc lào mới phát: trước tiên, ta rửa sạch chỗ lở ngứa bằng nước nóng, gãi cho trợt da ra, lau khô rồi lấy một quả Chuối vừa bẻ trên buồng ra, cắt dần từng lát, cho nhựa chuối tiết ra mà thấm, bôi, xát vào chỗ ngứa. Làm 4-5 lần sẽ khỏi.

Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành

Xem thêm: SỔ TAY CÂY THUỐC VÀ VỊ THUỐC ĐÔNG Y - BA TIÊU


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.