Chuyển đến nội dung chính

Cây Hoa Chữa Bệnh - CÂY HOA MƯỜI GIỜ

Cây Hoa Chữa Bệnh - CÂY HOA MƯỜI GIỜ

Tên khác: Cây hoa Tùng diệp, Ngọ thời hoa; Bán chi liên, Đại hoa mã xỉ hiện.
Tên khoa học: Portulaca grandiflora Hook. Họ Rau sam (Portulacaceae).

Nguồn gốc:
Cây có nguồn gốc Brazin (Ba Tây), Nam Mỹ: Chi Portulaca có 50 loài. Ở Việt Nam thường gặp một số loài như rau sam (P. olearaceae), cây Hoa mười giờ (P. grandiflora) v.v... Sở dĩ có tên Portulaca vì cây có quả nang kín với những hạt; khi quả già, nứt, mở ra như cửa (porta) mở. Cây Hoa mười giờ còn có tên Hán Việt là Ngọ thời hoa, cũng có nghĩa là có hoa nở vào khoảng giờ Ngọ (buổi trưa). Cây Hoa mười giờ được trồng làm cảnh, hoa đơn hay kép màu tím, đỏ hoặc vàng; mọc ở ngọn cành, thường nở vào lúc 10 giờ sáng và tàn trong ngày. Là cây hoa mùa hè, dễ trồng, thân bò lan trên mặt đất; thường trồng ở các vườn hoa; rìa luống. Ở Hà Nội (Việt Nam), trồng 2 giống:
- Hoa mười giờ kép, hoa to, nhiều lớp cánh màu cánh sen, cây này mọc khoẻ.
- Cây mười giờ hoa nhỏ, một lớp cánh, nhiều màu sắc; cây này mọc yếu. Trồng bằng gieo hạt hay giâm ngọn.
Cây Hoa mười giờ vừa là cây cảnh vừa là cây làm thuốc (Trung Dược Đại Từ điển; Trung Dược Từ Hải).
Mô tả:
Cây thảo, sống 1 năm; thân chất thịt; cao 20 - 25 cm phân cành; cành mọc vươn thẳng lên; màu tía, sáng bóng. Lá hình trụ tròn, mọc so le, dài 1 - 2,5 cm; đường kính 1 - 2 mm; ở kẽ lá có lông trắng mịn. Hoa mọc đơn chiếc hoặc mọc thành cụm ở đầu cành, đưởng kính 3 - 4 cm; cánh đài 2; cánh hoa 5, hoặc nhiều hơn; cánh dài 6 mm; màu vàng, đỏ, tím hoặc phới hồng; cánh hoa hình tìm ngược; không có lông. Bầu hạ 1/2 có 1 ô, quả nang, có nhiều hạt màu đen hay màu tro xâm; hạt hình thận hay bầu dục đường kính không tới 1 mm. Mùa hoa: tháng 6 - 7.

Bộ phận dùng: Toàn thảo

Thành phần hoá học:
Toàn cây có chứa Portulal. Thân cây và hoa có chứa 
b-cyanin, b-nidin, mesembryanthemin II, III, scutelia rein, scutellarin, acid b-lamic, neobetanin, vulgaxanthin II, indicaxanthin.

Tác dụng:
- Xúc tiến miễn dịch;
- Chống u bướu (kháng lựu).

Theo Đông y:
Tính vị: Khổ, vi tân; hàn.
Công dụng: Thanh nhiệt giải độc;
Chủ trị: Yết hầu sưng đau; bỏng; băng huyết; thổ huyết; bị đánh bị ngã tổn thương: thấp sang; sang tiết thũng độc.
Cách dùng, liều lượng:
Uống: Ngày dùng 15 - 30g, sắc nước thuốc để uống.
Dùng ngoài: Số lượng thích hợp; giã nát dược liệu rồi bôi, đắp chỗ đau hoặc giã, vắt lấy nước trấp bôi chỗ đau.
Kiêng ky: Phụ nữ có thai, không dùng [Trung Dược Từ Hải; trang 1819, số 07337, (1993)].


Bài viết được trích từ sách: CÂY HOA CHỮA BỆNH
của các tác giả Nguyễn Văn Đàn, Vũ Xuân Quang, 
Ngô Ngọc Khuyến biên soạn, NXB Y Học ấn hành.


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.