Chuyển đến nội dung chính

Cây Hoa Chữa Bệnh - BỒ HOÀNG (PHẤN HOA)

Cây Hoa Chữa Bệnh - BỒ HOÀNG (PHẤN HOA)

Tên khác: Cỏ nến, Bông nến, Hương bồ, Bồ hoàng bao dài (Trường bao hương bồ)
Tên khoa học: Typha angustata Bory et Chaub. Họ Cỏ nến (Typhaceae).

Nguồn gốc:
Cỏ nến mọc hoang khắp nơi trên thế giới; ở Việt Nam cỏ nến mọc hoang nhiều ở bờ ao, ven hồ và đầm lầy.

Mô tả:
Cỏ nến (T. angustata), cây thảo, cao tới 2m, có thân rễ, sống nhiều năm. Lá mọc thành khóm dày, mềm, dài quá thân cây, rộng 1 - 2 cm. Lá non màu trắng ngà, mọc thành 2 hàng, có bẹ to, hình bản dài; gân lá song song. Hoa đơn tính, cùng gốc; cụm hoa mọc ở đầu ngọn; bông đực ở phía trên; bông cái ở phía dưới, thành hình trụ tròn màu nâu. Bông hoa đực và bông hoa cái tiếp cận nhau, dài 7 - 15 cm, đường kính 1,5 - 2 cm, trông như cây nến. Nhị ở hoa đực được bao bọc bởi những bông ngắn, màu vàng nâu; hạt phấn rất nhiều. Bông cái có lông màu nhạt hơn. Quả nhỏ hình thoi, khi chín mở theo chiều dọc.
Mùa hoa: tháng 6 - 9. Hạt phấn hoa nhỏ, màu vàng kim được dùng làm thuốc.

Bộ phận dùng:
Dùng phấn hoa phơi khô của hoa đực. Chọn ngày lặng gió, khô ráo, cắt lấy bông hoa, phơi khô; nếu trời râm phải tãi ra, tránh ủ nóng làm biến chất. Dùng cối nghiền, sàng sạch lông và tạp chất, rây lấy bột phấn nhỏ, phơi khô, để dùng. Cây được dùng làm thuốc ghi trong các Dược điển như T.angustata; T. angustifolia L. và T. orientalis Presl cùng một số loài phấn hoa khác, chủ yếu là phấn hoa cây Typha. Cần nghiên cứu khai thác sử dụng loại dược liệu này trong nước để giảm nhập khẩu Bồ hoàng của nước ngoài.

Thành phần hoá học:
Chất béo khoảng 30%, vitamin B1, B2, C, acid amin. Hoạt chất chủ yếu của phấn hoa Trường bao hương bồ (T. angustata) có: flavonoid, a-typhasterol (b-sitosterol); acid amin; acid asparaginic, leucin, alanin, lysin, histidin v.v...

Tác dụng:
- Tác dụng đối với hệ tim mạch.
- Giảm lipid huyết và chống xơ cứng động mạch.
- Ảnh hưởng đến quá trình ngưng máu.
- Tác dụng trên tử cung và đối với cơ trơn đường ruột.
- Ảnh hưởng đối với công năng miễn dịch.
- Tác dụng chống viêm

Theo Đông y:
Tính vị, quy kinh: Vị cam, vi tân, tính bình; vào các kinh can, tâm, tỳ.
Công năng: Chỉ huyết (cầm máu), khứ ứ, lợi niệu.
Chủ trị: Nôn ra máu, chảy máu cam, họ ra máu, băng huyết, Chấn thương xuất huyết, sưng đau: mất kinh, đau kinh; đau nhói thượng vị; đái khó, đau rít, tiểu ra máu.
Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 5 - 9g, dạng thuốc sắc hay thuốc bột.
Dùng ngoài: số lượng thích hợp, đắp lên chỗ đau.
Kiêng kỵ: Có thai không dùng.

Chủ thích:
Một số Dược điển nước ngoài cũng đã dùng một số loài Bồ hoàng như sau:
- Trưởng bao bồ hoàng (Typha augustata)
- Bồ hoàng lá hẹp (Typha angustifolia L): Cây này thưởng mọc ở vùng đầm lầy ven bờ nước và cả nơi nước lợ.
- Bồ hoàng; Hương bồ lá rộng (Typha latifolia L.)
- Bồ hoàng; Hương bồ phương Đông (Typha orientalis Presl.) (Chủ yếu là Bồ hoàng 1, 2 và 4 được ghi ở Dược điển Trung Quốc 1963, 1991, 1995).

Dược liệu này có ghỉ trong Nam Dược Thần Hiệu, Tuệ Tĩnh.

Bài viết được trích từ sách: CÂY HOA CHỮA BỆNH
của các tác giả Nguyễn Văn Đàn, Vũ Xuân Quang, 
Ngô Ngọc Khuyến biên soạn, NXB Y Học ấn hành.



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.