Măng cụt (Garcinia amngestana L.) thuộc họ Bứa (Clusiaceae).
Mô tả: Cây to, cao đến 25m, có chất nhựa vàng. Lá dày, cứng, mọc đối, không lông, mặt dưới nhạt màu hơn mặt trên. Hoa đa tính, thường có hoa cái và hoa lưỡng tính. Hoa lưỡng tính có cuống, có đốt, có 4 lá đài, 4 cánh hoa màu trắng, 16 - 17 nhị và bầu 5 - 8 ô. Quả tròn, mang đài còn lại; vỏ quả rất dai xốp, màu đỏ như rượu vang, chứa 5 - 8 hạt, quanh hạt có lớp áo, hạt trắng, ngọt ngon. Ra hoa tháng 2 - 5, có quả tháng 5 - 8.
Bộ phận dùng: Vỏ quả và vỏ cây.
Nơi sống và thu hái: Cây được nhập trồng vào nước ta từ lâu. Khắp các tỉnh đồng bằng đều có trồng rải rác lấy quả ăn. Vỏ quả thu nhặt vào mùa quả chín, ăn lớp áo hạt, để vỏ dùng làm thuốc phơi khô cất dành. Vỏ cây có thể thu hái quanh năm.
Hoạt chất và tác dụng: Trong vỏ quả có chứa 7 - 13% tanin. Còn có chất nhựa và chất mangostin có tinh thể hình phiến nhỏ màu vàng tươi không tan trong nước. Vỏ cây cũng chứa tanin. Vỏ quả được dùng trị ỉa chảy và kiết lỵ. Nước sắc vỏ quả cũng được dùng thụt vào âm đạo để rửa trong trường hợp bị bệnh bạch đới, khí hư. Vỏ cây thường dùng chữa bệnh ỉa chảy.
Cách dùng: Nước sắc vỏ quả Măng cụt: Lấy khoảng một chục cái vỏ Măng cụt cho vào trong 1 nồi đất, đậy thật kín bằng 1 tàu lá chuối. Sau đó đun sôi đến khi nước có màu thật sẫm. Dùng nước này uống mỗi ngày 3 - 4 chén.
Ở vùng nóng, người ta còn phối hợp với những vị thuốc khác. Vỏ Măng cụt khô 60g, hạt Mùi 5g, hạt Thì là 5g, đem sắc trong 1200ml nước. Đun sôi kỹ, còn lại 600ml thì chiết ra để uống, ngày 5 lên, mỗi lần 120ml. Có thể gia thêm rượu thuốc phiện.
Nước sắc vỏ cây: Lấy một nắm vỏ, khoảng 50g, đem cắt từng khoanh, cho vào 2 chén nước, sắc như sắc thuốc, đun nhỏ lửa cho sôi từ 15 đến 30 phút. Sau đó để nước âm ấm, chiết lấy nước uống làm nhiều lần, mỗi lần độ một ly nhỏ. Thuốc sắc ngày nào thì uống trong ngày đó, có thể thêm đường để dễ uống và đỡ khát.
Trích nguồn: CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG của PTS. Võ Văn Chi
Nhận xét
Đăng nhận xét