Còn có tên là cây rau muối dại, cây cỏ hôi, cây thanh hao dại, thổ kinh giới.
Tên khoa học Chenopodium ambrosioides L. (Chenopodium anthelminticum A. Gray.).
Thuộc họ Rau muối Chenopodiaceae.
Chú thích về tên: Tên cây dầu giun là tên mới đặt vào khoảng năm 1939-1940, vì cây này cho tinh dầu chữa giun. Có chữ dầu để phần biệt với cây sử quân tử có tên khác là cây giun.
A. Mô tả cây
Cây dầu giun là một loại cỏ sống hằng năm, nhưng cũng có khi ở đất tốt và cao ráo mọc 2-3 năm. Cao chừng 1m-1,5m hay hơn. Vỏ lá, thân và hoa có mùi hăng đặc biệt. Lá có cuống, mọc cách dài thon, một đầu nhọn, màu lục nhạt, phiến lá không phẳng, chung quanh có răng cưa thưa và không rõ rệt, dài chừng 35-75mm, rộng 13-25mm. Trên lá có lông, thường ở các gân lá, nhất là ở mặt dưới. Hoa mọc tập trung thành xim đơm (glomerule) ở kẽ lá. Giữa chùm là hoa đực hay hoa lưỡng tính, xung quanh có hoa cái nhỏ và không có cuống. Đường kính hoa độ 1mm, bao hoa có cánh hình bầu dục, hoa có 5 nhị, nhưng có khi chỉ có 3 hoặc 2, bầu hình bầu dục. Quả là những bế quả màu lục nhạt hay nâu nhạt, hình cầu, đường kính chừng 1,5mm, cùi mỏng, có lá đài không rụng, trong chứa một hạt nhỏ đen và bóng. Vị hắc đặc biệt.
Thân cày non, lá, bầu hoa có lông thuộc 3 loại: lông che chở đa tế bào, lông che chở đa tế bào nhưng tế bào sau cùng lớn hơn, thành góc với các tế bào khác và lông bài tiết, chân ngắn gồm 1 hay 2 tế bào, tận cùng bằng một tế bào phồng to lên. Hái toàn cây và hạt để cất tinh dầu làm thuốc chữa giun (Hình dưới).
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây mọc tự nhiên ở nhiều nước vùng nhiệt đới, có mọc ở Châu Âu (vùng Địa Trung Hải). Tại Việt Nam mọc khắp Bắc Bộ, Trung Bộ, nhưng hình như tại Bấc Bộ mọc khỏe và dễ hơn các nơi.
Cây dầu giun ưa đất phù sa bồi. Ở Bắc Bộ, mọc tự nhiên ở hai bên bờ sông Hồng, từ Vĩnh Phúc tới Nam Hà, ven biển tỉnh Thái Bình, Hải Phòng (Đồ Sơn). Mọc vào các tháng 6, tháng 7 thành từng bãi rất rộng. Ở ven sông vùng Hà Nội có rất nhiều. Những nơi cao mát như Sapa, Đà lạt cũng có cây dầu giun mọc hoang.
Cây mọc dại từ đầu mùa xuân đến giữa mùa hè thì ra hoa kết quả. Đến tháng 8 tháng 9, quả chín hạt rụng xuống đất. Rồi cây bị đất phù sa tràn ngập, thối chết, những hạt bị vùi xuống đất đến mùa xuân lại mọc lên.
Trước đại chiến thứ hai (1939-1945) không ai khai thác ở Việt Nam. Nhưng từ năm 1939 được khai thác và được nhiều nơi thí nghiệm trồng tỉa, Sơn Cốt, Phổ Yên (Bắc Thái), Xuân Mai, Hoài Đức (Hà Tây), bãi Phúc Xá (Hà Nội). Hiện nay việc trồng đang được phát triển rất mạnh. Qua việc trồng tỉa đã có những kinh nghiêm sau đây:
Đất trồng: Cần thật tốt, ưa đất cát, đất phù sa. So sánh hiệu suất của ba nơi đều hái vào tháng 7 trên một diện tích bằng nhau là 360m2
Như vậy một hecta có thể thu hoạch một năm từ 2.700kg tới 18.000kg cây tươi và từ 90 tới 240kg hoa quả tươi có thể dùng để cất tinh dầu. Đất tốt có thể tới 21.600kg.
Cách cấy: Hoặc gieo hạt rồi đánh cây con. Lối gieo hạt thẳng tốt hơn, cây mọc khỏe, nhiều cành lá, cao tốt hơn. Nếu cấy thì cây thấp, chóng ra hoa và kết quả.
Mùa gieo hạt tốt nhất vào tháng 12 hoặc tháng 1 năm sau, gieo xong gặp mưa phùn mọc rất khỏe. Có thể gieo sớm hơn (tháng 10) hoặc muộn hơn một ít (2-3). Gieo hạt chừng 8 đến 15 hôm thì mọc. Vì hạt nhỏ nên khi gieo cần trộn với 5 phần đất. Nếu gieo như gieo mạ thì một sào (360m2) cần 2,5kg hạt, nếu trồng hố cách nhau 50cm thì 1 sào cần 1kg hạt.
Mùa hái: Từ lúc gieo hạt đến lúc quả chín phải 6 tháng. Nhưng sau 4 tháng đã có thể cắt cây để cất tinh dầu. Hoặc cắt cả cây (đối với những nơi phải tranh thủ trước khi ngập nước) hoặc cắt ngọn có hoa: gốc và cành còn lại sẽ mọc lá mới, thu hoạch lần thứ hai.
Nên cắt vào lúc khô ráo, trước khi quả chín.
Cây hái về phải cất ngay, vì để lâu tinh dầu bốc hơi và cây có thể bị thối. Nếu không cất tinh dầu kịp cần phơi trong mát, tránh chất thành đống.
Hiệu suất cao nhất vào tháng 5 tháng 6. Đây là hiệu suất của một hecta qua các tháng.
Trọng lượng cây tươi trung bình một hecta cất được 3.400kg cây cất được từ nửa lít tới 30 lít tinh dầu.
C. Thành phần hóa học
Hoạt chất của cây dầu giun là tinh dầu giun. Tinh dầu giun cất từ cả cây hoặc từ hạt. Hiệu suất của hạt từ 0,65%-1%, hiệu suất của cây, chỉ chừng 0,35%.
Vì tinh dầu rất hay hỏng, cho nên cần cất mau, từng mẻ nhỏ một. Nếu đun nóng quá, tinh dầu bị phá hủy trước khi bốc lên.
Tinh dầu giun mùi hăng, vị nóng, đắng, màu vàng nhạt. Tỷ trọng ở 15° từ 0,965 đến 0,990, tan trong 3 đến 10 phần rượu 70°, rất tan trong ête và clorofoc, hơi tả tuyền (αD từ -4° đến 8°5) 1g=L giọt. Thành phần chủ yếu của tinh dầu giun là atcaridol (ít nhất phải có 65%). Tinh dầu của hoa và hạt có chứa nhiều hơn (trong các tháng 5, 6, 7, 8 tỷ lệ có thể lên tới 75-85%).
Ngoài ra, còn chất ximen (22-35%) cacbua khác, ít campho, dimetyl etylen, oxyt, axit butylic và glycol. Chất atcaridol là một peroxyt có nhân para-ximen, rất dễ bị phá hủy khi cất tinh dầu.
Giá trị của tinh dầu giun do tỷ lệ atcaridol quyết định.
Định lượng atcaridol: Muốn định lượng atcaridol, ta dựa trên tính chất oxy hóa của nó. Trong tinh dầu hòa tan vào axit axêtic ở môi trường axit clohydríc, chất atcaridol giải phóng iốt của kali iođua theo tỷ lệ thuận. Định lượng iốt giải phóng ta có thể tính được lượng atcaridol.
Cách tiến hành: Loại hết nước trong tinh dẩu bằng cách ngâm với Na2SO4 khan, lấy một trọng lượng Pg chừng 2,5g tinh dầu cân thật đúng, hòa tan vào trong một lượng axit axêtic kết tinh được để có thể đủ một thể tích tổng số là 50ml.
Trộn 3ml dung dịch KI (có 83g KI trong 100ml) với 5ml HCl đặc (Tt) và 10ml axit axêtic kết tinh được (Tt).
Cho hỗn hợp này vào trong tủ lạnh hay một hỗn hợp sinh hàn ở nhiệt đô 0° đến 3°. Khi hỗn hợp này đã thật lạnh rồi, cho thật nhanh 5ml dung dịch tinh dầu trong axit axêtic chuẩn bị trên kia và đã chứa sẵn trong ống nhỏ giọt Mohr. Nút kỹ và để hỗn hợp trong tủ lạnh 5 phút.
Thêm vào 5ml cacbon têtraclorua. Định lượng iôt giải phóng bằng dung dịch N/10 natri hyposunfit.
Làm một dung dịch đối chứng khác (không có tinh dầu) để so sánh. Chỉ trộn 3ml dung dịch KI, 5ml HCl đặc, 15ml axit axêtic kết tinh được và 20ml nước cất cho hỗn hợp này vào tủ lạnh cùng với hỗn hợp để định lượng.
Thêm 5ml cacbon têtraclorua và dung dịch N/10 natri hyposunfit cho tới khi hết màu. Ví dụ N và n ml dung dịch N/10 natri hyposunfit đã dùng để dinh lượng dung dịch so sánh và dung dịch để định lượng.
Tỷ lệ atcaridol trong 100g tinh dầu là:
Tinh dầu giun dùng làm thuốc phải chứa ít nhất 60% và nhiều nhất 80% atcaridol.
D. Tác dụng sinh lý
Tinh dầu độc ở liều tương đối thấp do tác dụng suy yếu đối với tim, nó còn có tác dụng hạ huyết áp và hại đến nhịp thở.
Liều mạnh, nó làm ống tiêu hóa bị xót hay buổn nôn, nôn mửa, chóng mặt, ù tai, hoa mắt, lạnh đầu ngón chân ngón tay.
Có trường hợp chết với hiện tượng trung khu hô hấp bị tê liệt.
Nó rất độc đối với giun: 1 dung dịch nước có 1/5.000 trọng lượng tinh dầu giun cũng đủ làm tê liệt giun đũa.
Đối với giun của ngựa rất khó chữa mà cũng chỉ cần một liều 16 đến 20ml để tiêu diệt hết.
Chất atcaridol tác dụng mạnh gấp hai lần tinh dầu. Liều độc của atcaridol là 300mg cho 1kg thân thể của thỏ, 600mg đối với chuột bạch và 500mg đối với ếch. Cá chết sau 12 giờ trong một dung dịch 1/8.000.
Tinh dầu giun có tác dụng đối với giun đũa, giun mỏ nhưng không tác dụng đối với sán và giun kim.
Tóm lại tinh dầu giun và atcaridol có tác dụng đối với giun đũa nhưng độc và nguy hiểm cho nên không nên dùng đốì với người già, đàn bà có thai, người yếu.
E. Liều dùng
Ngày uống 30 đến 50 giọt chia làm hai hay ba lần uống (nhỏ trên miếng đường) hai giờ sau khi uống hết tinh dầu, uống một liều thuốc tẩy muối magiê sunfat hoặc uống cả 30 hay 50 giọt ngay một lần hòa tan trong 30ml dầu thầu dầu.
Trẻ em tùy theo tuổi, uống 10 đến 20 giọt một ngày.
Thuốc có độc, dùng phải cẩn thận.
Nguyên Liệu Làm Thuốc trích từ nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của GS-TS Đỗ Tất Lợi
Nhận xét
Đăng nhận xét