Chuyển đến nội dung chính

Chữa Cảm Sốt - Đậu Sị

Còn gọi là đạm đậu sị, đỗ đậu sị, hăm đậu sị.

Tên khoa học Semen Sojae praeparatum.

Đậu sị hay đạm đậu sị là đậu đen chế biến và phơi hay sấy khô.
Đậu Đen làm Đậu Sị - Semen Sojae praeparatum - Nguyên liệu làm thuốc Chữa Cảm Sốt

A. Chế đậu sị

Có nhiều cách chế đậu sị, sau đây là một số phương pháp hay được dùng:

1. Đậu đen rửa sạch. Ngâm nước một đêm sau đó đồ cho chín. Tãi đều trên nia, đợi cho ráo nước thì phủ lá chuối lên cho kín. Đợi 3 ngày mở ra xem nếu thấy mốc vàng đều là được, vẩy nước cho ẩm đều, cho vào thúng phủ lá dâu tằm cho kín, đợi cho lên mốc vàng đều, lại đưa ra phơi cho khô rồi lại tưới nước cho ẩm đều, lại phủ lá dâu tằm và ủ, cứ làm như vậy cho tới khi tất cả đậu có mốc vàng đều thì lấy ra phơi ở nhiệt độ 50-60°C cho đến khô là được.

2. Phương pháp Dược điển Trung Quốc, 1965:

Sác nước lá dâu và thanh cao (cứ 100kg đậu đen thì dùng 4kg lá dâu và 7kg thanh cao). Lọc bỏ bã, cho đậu đen vào trộn đều, nấu cho đến khi đậu đen hút hết nước sắc và chín đều. Lấy ra đợi cho còn hơi ấm thì cho vào thúng. Rải bã lá dâu và thanh cao lên. Ủ kín và chờ cho lên men màu vàng đều, lấy ra phơi hay sấy khô là được.

Ngoài hai phương pháp này, còn có nhiều phương pháp phức tạp khác. Ví dụ như người ta dùng lá nghể, thanh cao, tía tô, hoắc hương, bạc hà tươi giã nát ép lấy nước, thêm ma hoàng sắc lấy nước. Cho đậu đen vào trộn đều và nấu chín. Cho vào ủ cho lên men màu vàng thì lấy ra phơi khô. Xem như vậy phương pháp chế đậu sị chưa thống nhất nhưng về căn bản là cho đậu đen nấu chín, lên một thứ mốc nhất định màu vàng rồi phơi khô, dùng làm thuốc.

B. Thành phần hóa học

Trong đậu sị có thành phần của đậu đen (xem vị này) ngoài ra khi cho lên men thêm một số men. Nhưng chưa thấy có tài liệu nghiên cứu sâu hơn.

C. Công dụng và liều dùng

Đậu sị hay đạm đậu sị là một vị thuốc dùng theo kinh nghiệm lâu đời. Theo tài liệu cổ, đậu sị có vị đắng, tính hàn, vào hai kinh phế và vị. Có. tác dụng giải biểu trừ phiền. Dùng làm thuốc thành nhiệt sơ khởi, khi sốt, khi rét, đầu nhức, ngực đầy trướng, phiền nhiệt. Những người không phải phong hàn ngoại cảm không dùng được.

Hiện nay đậu sị thường được dùng chữa cảm mạo, thương hàn, đầu nhức, sốt, sốt rét, trong người phiền muội, hai chân lạnh nhức. Còn dùng chữa lỵ.

Mỗi ngày dùng 12 đến 24g dưới dạng thuốc bột hay thuốc sắc.

Đơn thuốc có đậu sị dùng trong nhân dân

Trẻ con lên đơn, chảy nước: Đậu sị sao cho cháy có khói lên, hết khói thì lấy ra tán nhỏ, hòa dầu vừng hay dầu lạc hoặc dầu thầu dầu hoặc mỡ lợn bôi lên nơi lở loét.

Mụn nhọt đinh độc: Nấu đậu sị cho nhừ nát, đắp vào nơi sưng đau. Chừng 3-4 lần thấy đỡ và khỏi.

Chữa hen suyễn, khi nào trở trời mưa thì phát; ăn uống không được, nằm ngồi không yên: Đậu sị 40g, thạch tín 4g, khô phàn 12g, tất cả tán nhỏ viên bằng hạt đậu xanh. Mỗi lần uống 7 đến 9 viên. Uống trước khi đi ngủ. Theo kinh nghiệm nhân dân uống thuốc này không được dùng thức ăn nóng hay nước nóng. Không nên dùng quá liều. Thường chỉ dùng trong vòng 7-8 ngày.

Nguyên Liệu Làm Thuốc trích từ nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của GS-TS Đỗ Tất Lợi

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.