Chuyển đến nội dung chính

CHỮA HO HEN - Cánh Kiến Trắng

Còn có tên cây bồ đề, an tức hương, benzoin. 

Tên khoa học Styrax tonkinense Pierre.

Thuộc họ Bồ đề Styracaceae.
Hoa Cây CÁNH KIẾN TRẮNG - Styrax tonkinense Pierre - Nguyên liệu làm thuốc Chữa Ho Hen

Theo sách cổ: an=yên, tức=nghỉ, vì mùi thơm của cây làm cho ma quỷ phải yên, không quấy rối người.

Có người lại giải thích An tức là tên cổ của một địa phương ngoài Trung Quốc; vì cây có hương thơm, nguồn gốc ở nước An Tức xưa.

An tức hương (Benzoinum-Benzoe) là nhựa của cây cánh kiến trắng hay cây bồ đề.

A. Mô tả cây

Cánh kiến trắng là một cây nhỏ, có thể cao chừng 15m. Búp non phủ lông mịn màu vàng nhạt. Lá mọc so le, có cuống. Phiến lá nguyên, hình trứng, tròn ở phía dưới, nhọn dài ở đầu, mặt dưới màu trắng nhạt do có nhiều lông mịn, mặt trên màu lục nhạt. Lá dài 6-15cm, rông 2-2,5cm. Hoa nhỏ trắng thơm mọc thành chùm, ít phân nhánh mang ít hoa. Quả hình cầu, đường kính 10-16mm phía dưới mang đài còn sót lại, mặt ngoài quả có lông hình sao (Hình dưới).
Hình vẽ CÁNH KIẾN TRẮNG - Styrax tonkinense Pierre - Nguyên liệu làm thuốc Chữa Ho Hen

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Mọc hoang ở nhiều tỉnh miên núi nước ta, nhiều nhất Hoà Bình, Hà Tây, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Sơn La, Lai Châu. Tại các nước khác: Lào, Thái Lan, Inđônêxya. Trích vỏ thân cây lấy nhựa. Đem về chia thành loại tốt xấu. Loại tốt có màu vàng, nhạt, mùi thơm vani. Loại kém có màu đỏ, mùi kém hơn, có lẫn nhiều tạp chất (vỏ cây, đất cát).

C. Thành phần hoá học

Trong an tức hương có coniferyla benzoat, axit benzoic, axit xinamic, vanilin, axit d-siaresnolic.
CÁNH KIẾN TRẮNG - Styrax tonkinense Pierre - Nguyên liệu làm thuốc Chữa Ho Hen

D. Công đụng và liều dùng

Theo tài liệu cổ, an tức hương Vị cay, đắng, tính bình, vào 2 kinh tâm và tỳ. Có tác dụng hành khí huyết, trừ tà khí, khai khiếu, an thân, đau bụng, đẻ xong huyết vậng, người già ho và khó thở. Những người âm hư hoả vọng không dùng được.

Hiện nay an tức hương dùng trong chữa viêm phế quản kinh niên và xổ nước đường hôi hấp.

Dùng ngoài làm mau lành các vết thương, chữa nẻ vú. Ngoài công dụng làm thuốc còn làm nguyên liệu chế nước hoa, chế axit bezoic. Liều dùng uống 0,5-2g dưới dạng xirô hoặc phối hợp với các Vị thuốc khác.

Đơn thuốc có an tức hương

Chữa nẻ vú:

An tức hương 20g, cồn 80° 100g. Ngâm 10 ngày, thỉnh thoảng lắc. Lọc. Dùng cồn này hoà thêm nước bôi lên các nơi vú nẻ.

Nguyên Liệu Làm Thuốc trích từ nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của GS-TS Đỗ Tất Lợi





Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.