Chuyển đến nội dung chính

THUỐC BỔ, THUỐC BỒI DƯỠNG - CÁC LOẠI SÂM - Nhân Sâm

CÁC LOẠI SÂM 

Đông y coi sâm là vị thuốc đứng đầu các vị thuốc bổ, theo thứ tự sâm, nhung, quế, phụ.

Sâm nói ở đây là vị nhân sâm. Vì vị nhân sâm giống hình người cho nên một số vị thuốc có hình giống người cũng được gọi là sâm, sâm là một vị thuốc bổ nên dần dần một số vị thuốc có tác dụng bổ cũng được gọi là sâm. Rồi để phân biệt vị nọ với vị kia người ta thêm tên địa phương vào như sâm bố chính (sâm sản xuất ở huyện Bố Trạch), đảng sâm (vì sản xuất ở Thượng Đảng) hoặc thêm tên màu sắc vào như huyền sâm (sâm có màu đen), đan sâm (sâm có màu đỏ), v.v...

Ở đây chúng tôi giới thiệu một số vị thuốc mang tên sâm, có vị đã được nghiên cứu công nhận là tốt, có vị chưa được nghiên cứu. Mong có dịp chúng ta sẽ nghiên cứu sâu thêm. 


NHÂN SÂM 

Còn có tên là viên sâm, dã nhân sâm.

Tên khoa học Panax ginseng C.A.Mey. (P.schinseng Nees.)

Thuộc họ Ngũ gia bì Araliaceae. 
NHÂN SÂM TRIỀU TIÊN - Panax ginseng - Nguyên liệu làm Thuốc Bổ, Thuốc Bồi Dưỡng
Tên nhân sâm do vị thuốc giống hình người. Tên Panax do chữ Hy Lạp pan là tất cả, acos là chữa được, có ý nói vị thuốc chữa được mọi bệnh, ginseng và schinseng là phiên âm chữ nhân sâm.

Mặc dầu vị nhân sâm hiện nay ta vẫn còn phải nhập nhưng công dụng quá phổ biến, nhiều người lầm với một số cây ta có. Liên Xô cũ, Trung Quốc, Triều Tiên đều đã giúp ta hạt giống và mầm để thí nghiệm trồng thử cho nên chúng tôi giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn và để cố gắng đặt vấn để di thực được nhân sâm.

Nhân sâm (Radix ginseng hay Radix ginseng sylvestris) là rễ chế biến rồi phơi hay sấy khô của cây nhân sâm trồng hoặc mọc hoang. Có tác giả xác định hai loại nhân sâm như sau:

1. Nhân sâm mọc hoang: Panax ginseng C.A.Mey. forma sylvestre Chao et Shih.

2. Nhân sâm trồng: Panax ginseng C. A. Mey. forma sativum. Chao et Shih.

A. Mô tả cây nhân sâm

Cây nhân sâm là một cây sống làu năm, cao chừng 0,6m. Rễ mẫm thành củ to. Lá mọc vòng, có cuống dài, lá kép gồm nhiều lá chét mọc thành hình chân vịt. Nếu cây mới được một năm (nghĩa là sau khi gieo được 2 năm) thì cây chỉ có 1 lá với 3 lá chét, nếu cây nhân sâm được 2 năm cũng chỉ có 1 lá với 5 lá chét. Cây nhân sâm 3 năm có 2 lá kép, cây nhân sâm 4 năm có 3 lá kép, cây nhân sâm 5 năm trở lên có 4 đến 5 lá kép, tất cả đều có 5 lá chét (đặc biệt có thể có 6 lá chét) hình trứng, mép lá chét có răng cưa sâu.

Bắt đầu từ năm thứ ba trở đi, cây nhân sâm mới cho hoa, kết quả. Hoa xuất hiện vào mùa hạ. Cụm hoa hình tán mọc ở đầu cành, hoa màu xanh nhạt, 5 cánh hoa, 5 nhị, bầu hạ 2 núm. Quả mọng hơi dẹt to bằng hạt đậu xanh, khi chín có màu đỏ, trong chứa 2 hạt. Hạt cây sâm năm thứ 3 chưa tốt. Thường người ta bấm bỏ đi đợi cây được 4-5 năm mới để ra quả và lấy hạt làm giống (Hình dưới).
HÌNH VẼ NHÂN SÂM - Panax ginseng - Nguyên liệu làm Thuốc Bổ, Thuốc Bồi Dưỡng

B. Phân bố, trồng hái và chế biến

Cây nhân sâm mọc hoang và được trồng ở Trung Quốc, Triều Tiên, vùng Viên Đông của Liên Xô cũ, còn được trồng ở Nhật Bản, Mỹ, nhưng nổi tiếng vẫn là sâm Triều Tiên và Trung Quốc.

Riêng hai tỉnh Liệu Ninh và Cát Lâm (miền Đông Bắc Trung Quốc) sản lượng hàng năm lên tới 750.000kg.

Tại Triều Tiên, Khai Thành là nơi trồng nhiều nhân sâm nhất, đã có trên 200 năm kinh nghiệm. Việt Nam tuy đã có thí nghiệm trồng bằng hạt và mầm do các nước bạn Triều Tiên, Liên Xô cũ và Trung Quốc giúp nhưng chưa thành công.

Sau đây chúng tôi giới thiệu sơ lược cách trồng và chế biến nhân sâm của Khai Thành (Triều Tiên).
NHÂN SÂM - Panax ginseng - Nguyên liệu làm Thuốc Bổ, Thuốc Bồi Dưỡng

1. Chọn hạt giống:

Chọn ở những cây sâm mọc khoẻ, tốt đã mọc được 4 hoặc 5 năm (vùng Đông Bắc Trung Quốc chọn những cây đã được 5-6 năm) vì cây 3 năm chưa đủ khoẻ cây, 6 năm vỏ hạt cứng quá khó nảy mầm.

2. Gieo hạt:

Hạt thu hoạch tháng 8, cuối tháng 10-11 gieo hạt, tưới nước và để nằm dưới đất qua mùa đông có tuyết.

Cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm sau, hạt nảy mầm. Tỷ lệ nảy mầm đạt tới 47%. Trong thời gian cây lớn cần tưới đều giữ ẩm thích hợp.

3. Đánh cây con đi trồng:

Có thể đánh vào mùa thu (cuối tháng 10 đến trung tuần tháng 11) hoặc vào mùa xuân (đầu tháng 3 đến đầu tháng 4) ngay trong năm đầu sau khi cây nảy mầm. Đánh đi trồng vào mùa xuân thì tốt hơn.

Trong thời gian trồng cần che nắng cho nhân sâm, nên cho ánh nắng buổi sáng chiếu vào nhiều tránh nắng trưa và chiều.

Phân bón dùng phân xanh và khô dầu, không bón thúc bằng phân bắc và nước tiểu.

4. Thu hoạch:

Sau 6 năm, vào trung tuần tháng 9 và thượng tuần tháng 10 đào củ, chú ý tránh làm rễ bị đứt, không phơi gió, phơi nắng để giữ nguyên độ ẩm trong sâm. Sau đó chia loại sâm tốt để chế hồng sâm, loại kém để chế bạch sâm.
HOA CÂY NHÂN SÂM - Panax ginseng - Nguyên liệu làm Thuốc Bổ, Thuốc Bồi Dưỡng

5. Chế biến nhân sâm:

Trên thị trường có nhiều loại sâm do chế biến khách nhau. Ở đây chỉ giới thiệu cách chế biến hai loại hồng sâm và bạch sâm của Triều Tiên.

a) Hồng sâm: Chọn những củ sâm to nhất, nặng ít nhất 37g, rửa sạch đất tùng củ một bằng bàn chải nhỏ, rửa ở dưới nước, để nguyên cả rễ, kể cả rễ nhỏ, rửa như vây sẽ được củ sâm trắng ngà. Cho vào nồi hấp ở áp lực hơi nước cao 2 atmotphe từ 1 giờ 20 phút đến 1 giờ 30 phút. Nhiệt độ hấp 80-90°C. Sau đó sấy khô ở nhiệt độ 60-70°C (6-7 giờ) hoặc ở 50- 60° (8-10 giờ) nên sấy khô hết sức mau.

Sau khi sấy khô, dùng tay rứt các rễ con để riêng gọi là tu sâm, củ sâm còn lại giống như hình người (nếu không giống thì sửa cho giống) phơi ra nắng từ 7 đến 15 ngày (tuỳ theo sâm to hay nhỏ) là được. Sau đó chia hồng sâm thành hai cấp: Cấp trời (màu đẹp, dáng đều đặn, giống người), còn lại cấp đất. Cuối cùng đóng gói từng cân ta (600g) một. Loại tốt nhất 15 củ nặng 600g loại kém nhất 60 củ=600g.

b) Bạch sâm: Vì sâm này khô và trắng. Những củ sâm không đủ tiêu chuẩn chế hồng sâm thì đem chế bạch sâm.

Trước hết cắt bỏ rễ con, dùng dao tre cạo sạch vỏ mỏng, sau đó phơi nắng cho hơi khô, đem vào sửa thành hình người rồi lại phơi nắng cho khô hẳn. Thời gian phơi cả trước lẫn sau hết chừng 7 đến 15 ngày. Sau đó đóng gói như hồng sâm. Thường hồng sâm được đóng vào hòm gỗ, bạch sâm đóng vào hòm giấy.

Gần đây, tại nhiều nước, nhân sâm đã được phát triển bàng nuôi cấy mô để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn về nhân sâm.

C. Thành phần hoá học

Nhân sâm được nhiều người nghiên cứu từ lâu. Nhung kết quả còn chưa đáp ứng được đỏi hỏi của các nhà khoa học. Sau đây là một số kết quả:

1. Trong nhân sâm có loại saponin sterolic. Hỗn hợp saponin có tên là panaxorit trước đây gọi là panaquilon hay panakilon.

2. Chất glucozit hoặc hỗn hợp glucozit mang tên là panaxin cũng chưa được nghiên cứu sâu. Trước đây gọi là gensenin cũng là một loại saponin chưa tinh khiết lắm.

3. Ngoài ra còn có một tí tinh dầu 0,055-0,250% làm cho nhân sâm có mùi đặc biêt, trong đó chủ yêu là chất panaxen C15H24.

4. Các vitamin B1 và B2, các mendiataza.

5. Tro chừng 3-7% trong đó có chừng 53% axit photphoric.

6. Các tạp chất khác gồm nhựa và chất béo tổng số chừng 1,5%.

Các axit béo gồm hỗn hợp axit panmitic, stearic và linoleic. Hỗn hợp này mang tên axit panaxic.

7. Các chất khác gồm có phytosterin 0,029%, tinh bột chừng 20%, chất pectin 16-23% và đường 4%..

8. Mới đây người ta lại thấy trong nhân sâm có hàm lượng germanium cao.

D. Tác dụng dược lý

Được nhiều người nghiên cứu và có rất nhiều tài liệu nói đến. Sau đây chúng tôi chỉ tóm tắt một số kết quả:

1. Tác dụng trên hệ thần kinh:

Từ xưa, tại Trung Quốc người ta đã biết thí nghiệm tác dụng làm giảm mệt của nhân sâm. Ví dụ trong Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân (thế kỷ thứ 16), có ghi cách thử nhân sâm như sau: “Cho 2 người cùng chạy, một người có ngậm miếng nhân sâm, một ngưòi không ngâm, sau khi chạy độ 3 đến 5 dặm người không ngậm nhân sâm sẽ thở mạnh còn người có ngâm nhân sâm vẫn thở như thường”.

Trong các năm 1949-1951 tại Liên xỏ cũ, Abramôva có thí nghiệm theo phương pháp cho chuột nhắt lội nước thì thấy nhân sâm có tác dụng làm chuột đỡ mệt.

- Năm 1947, Lazarev đã nghiên cứu và kết luận rằng nhân sâm có tác dụng hưng phấn thần kinh trung ương, dùng với liều điều trị có thể làm đỡ mệt, tăng hiệu suất công tác, so với thuốc phenamin thì tốt hơn.

- Năm 1955, Drake theo phương pháp của Zacuxov đã chứng minh liều điều trị của nhân sâm có khả năng rút ngắn thời kỳ phản xạ tiềm phục của thần kinh và làm mau sự chuyển động của thần kinh.

Nhưng liều cao quá có thể gây hiện tượng quá trấn tĩnh (Chu Nhan - Chu Kim Hoàng, Trung Hoa y học tạp chí, 12-1956).

2. Tác dụng trên huyết áp và tim:

Các nhà nghiên cứu Liên Xô cũ: Burkrat và Xakxopov (1947) và Kixêlev (1948-1959) đã nghiên cứu nước sắc và cồn nhân sâm, kết luận rằng tác dụng của dung dịch nước và dung dịch rượu nhân sâm như sau: Kixêlev dùng dung dịch 5%, 10% và 20% nhân sâm tiêm vào tĩnh mạch thỏ và mèo thấy tác dụng hạ huyết áp, nồng độ càng cao tác dụng ức chế trên tim càng mạnh, nhưng nếu nồng độ thấp thì lại co bóp tim mạch và số lần bóp càng tăng, do đó ông đã kết luận rằng nhân sâm có hai hướng tác dụng trên thần kinh thực vật: Liều nhỏ có tác dụng như thần kinh giao cảm, liều lớn có tác dụng như thần kinh phế vị (nerf vague).

3. Tác dụng trên hô hấp:

Năm 1947 Burkrat và Xakxopov đã báo cáo dùng 0,3-0,5ml dung dịch nhân sâm 20% tiêm vào tĩnh mạch mèo thấy nhân sâm hưng phấn hô hấp.

Một số nhà nghiên cứu Nhật Bàn và Trung Quốc trước đó đã tiêm vào tĩnh mạch thỏ chất ginsenin thấy liều nhỏ làm tăng hô hấp, liều cao có tác dụng ngược lại, nếu tiêm axit panaxic hay chất panaxen cũng thấy tác dụng như vậy.

Tuy nhiên ở trên mới chỉ thấy tác dụng khi tiêm còn chưa thấy tài liệu nghiên cứu tác dụng của việc uống nhân sâm đối với hô hấp.

4. Tác dụng đối với chuyển hoá cơ bản:

Năm 1922 hai tác giả Nhật Bản: Hà Bộ Thắng Mã và Nại Đằng Hệ Bình đã nghiên cứu tác dụng của bột nhân sâm và chất tan trong cồn của nhân sâm (uống và tiêm) đối với bệnh huyết đường quá cao nhân tạo trên thỏ, đều thấy có tác dụng rõ rệt làm hạ mức huyết đường xuống.

Năm 1954 và 1956 một số tác giả Trung Quốc cũng xác nhân trong Trung Hoa nội khoa tạp chí và Trung Hoa y học tạp chí tác dụng hạ huyết đường của nhân sâm.

Trên lâm sàng người ta đã thấy (Khâu Thần Ba, 1955) rằng nếu dùng nhân sâm chung với insulin thì có thể giảm bớt lượng insulin, thời gian hạ huyết đường được kéo dài hơn và chữa được bệnh tiểu đường.

5. Tác dụng đối với sự sinh trưởng và phát dục của động vật (máu lạnh hoặc máu nóng, côn trùng):

Cho uống hoặc tiêm thuốc chế bằng nhân sâm hoặc các chất lấy từ nhân sâm trên một số động vật so sánh với động vật không dùng nhân sâm, thấy trọng lượng con vật tăng lên, thời gian giao cấu của con vât kéo dài, hiện tượng tình dục xuât hiên rõ rệt.

6. Tác dụng đối với sức chống đỡ bệnh tật:

Những thí nghiệm của Daugolnikov (1950- 1952), Brekhman và Phruentov (1954-1957) và Abramov (1953) cho biết nhân sâm có tác dụng tăng sức đề kháng của động vật đối với tật bệnh.

7. Độc tính của nhân sâm:

Kixêlev đã tiêm vào dưới da chuột nhắt 1ml dung dịch nhân sâm 20% thấy sau 10-12 giờ chuột chết với trạng thái “mất sắc”. Nhưng cho uống thì độc tính rất ít.

E. Công dụng và liều dùng

Nhân sâm là một vị thuốc cổ truyền trong đông y. Các sách cổ thường ghi nhân sâm bổ năm tạng (tâm, can, tỳ, phế, thận) yêu tinh thần, định hồn phách, làm khỏi sợ hãi, trừ tà khí, sáng mắt, uống lâu nhẹ mình, tăng tuổi thọ, chữa các chứng đau ruột, dạ dày, nôn mửa.

Cách dùng trong nhân dân như sau:

1. Sâm thái mỏng, cho vào miệng ngậm và nhâm từng ít một, nuốt nước và cả bã.

2. Thái mỏng, cho vào ấm hay chén sứ. Thêm một tí nước đậy nắp. Đun cách thuỷ, uống nước. Sau đó lại thêm nước và đun cách thuỷ tiếp tục uống, làm như vậy cho đến khi hết mùi vị mới thôi.

Ngày dùng 2-6g.

Theo tài liệu cổ, nhân sâm vị ngọt, hơi đắng, tính ôn (lá có vị đắng, hơi ngọt), vào 2 kinh tỳ và phế. Có tác dụng đại bổ nguyên khí, ích huyết sinh tân, định thần, ích trí. Dùng chữa phế hư sinh ho suyễn, tỳ hư sinh tiết tả, vị hư sinh nôn mửa, bệnh lâu ngày khí hư, sợ hãi, tiêu khát. Những người bệnh có thực tà không dùng được.

Sau đó do các công trình nghiên cứu về nhân sâm đặc biệt của Liên Xô cũ, Trung Quốc, nhân sâm được tây y công nhận và sử dụng coi như thuốc tây.

Dược thư Liên Xô xuất bản lần thứ 9 năm 1961 công nhận nhân sâm là vị thuốc chính thức trong y học Liên Xô.

Có thể dùng dưới dạng thuốc sắc 5 hay 10% với liều 15-30ml một lần, ngày dùng 3 lần, hoặc dưới dạng cồn nhân sâm với liều 15 giọt một lần, ngày uống 3 lần.

Vài đơn thuốc có nhân sâm trong đông y

1. Độc sâm thang (đơn thuốc có một vị nhân sâm) chữa cơ thể quá suy nhược sau khi mất máu nhiều, thần kinh suy nhược: Nhân sâm 40g. Nước 400ml (2 bát) sắc còn 200ml (1 bát), cho uống từng ít một, không kể thời gian. Uống xong cần nằm yên.

2. Sâm phụ thang chữa những trường hợp mạch suy, kiệt, mồ hôi ra nhiều, chân tay lạnh: Nhân sâm 40g (có thể 20g), chế phụ tử 20g (có thể dùng 10g), sinh khương 3 nhát, táo đen 3 quả, nước 3 bát (600ml) sắc còn 200ml (1 bát) chia làm nhiều lần uống trong ngày.

Những vị thuốc dùng thay nhân sâm

Trên thị trường hiện nay có nhiều vị dùng lầm với tên nhân sâm. Ngoài các vị được giới thiệu kỹ ở sau như thổ cao ly sâm, bố chính sâm v.v... còn có vị thái tủ sâm hay hài nhi sâm được vùng Giang Tô Trung Quốc dùng thay nhân sâm và cũng có khi đưa bán ở nước ta.

Đó là rễ cây Pseudostellaria raphonorrhiza (Hemsl). Pax thuộc họ cẩm chướng Caryophyllaceae. Cây này là một loại cây cỏ nhỏ cao 7-15cm, chưa thấy ở nước ta. Thành phần hoá học và tác dụng dược lý chưa được nghiên cứu. Có người mới phát hiện trong thái tử sâm có fructoza.
THÁI TỬ SÂM - Panax ginseng - Nguyên liệu làm Thuốc Bổ, Thuốc Bồi Dưỡng
Dùng làm thuốc bổ, chữa trẻ con đổ mồ hôi trộm, kém ăn, với liều 8-12g một ngày (Hình trên).

Nguyên Liệu Làm Thuốc trích từ nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của GS-TS Đỗ Tất Lợi





Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.