Chuyển đến nội dung chính

CÁC VỊ THUỐC KHÁC NGUỒN GỐC ĐỘNG VẬT - Long Duyên Hương

Còn gọi là long duyên, long phúc hương, long tiết, Ambre gris.

Tên khoa học Ambra grisea.
LONG DUYÊN HƯƠNG (LONG DIÊN HƯƠNG) - Ambra grisea - Nguyên liệu làm Thuốc nguồn gốc động vật
Long duyên hương có nghĩa là nước dãi của con rồng (long là rồng, duyên hay diên là nước dãi, hương là có mùi thơm). Sự thực thì không phải là dãi con rồng mà chỉ là một chất đặc, sản phẩm tiêu hóa ở trong ruột của một loại cá ông (cá voi) Physeter macrocephalus L (P.catodon L.) thuộc họ Cá voi Physeteridae.

Chất này do cá bài tiết ra nổi trên mặt biển, trôi dạt vào bờ biển, người ta nhặt về dùng làm thuốc và chế nước hoa hoặc hương liệu.

A. Tính chất của long duyên hương

Loại cá ông này có đầu rất to, chiều dài của đầu chiếm lới một phần tư của toàn thân, phía đầu hơi hình vuông, hàm trên to, không có răng, hàm dưới nhỏ có răng, lưng nhỏ; lỗ phun nước ở phía đầu, khi phun nước không phun thẳng góc mà hơi nghiêng 45°, về phía trước, lưng màu tro đen hơi hồng, về phía bụng màu nhạt hơn. Con đực dài 15-20m, con cái chỉ dài 7-8m. Loại cá voi này thường sống từ vĩ tuyến 40 bắc đến vĩ tuyến 40 nam ở Thái Bình Dương, tại những đảo vùng Inđônêxia hay gần ven biển Thái Bình Dương. Những con cá này nhả chất này ra ngoài, nổi lên mặt biển hoặc trôi dạt vào bờ, những người đi biển nhặt về phơi khô để dành. Khi mới lấy về chưa có mùi thơm. Phải để trong lọ đậy kín, sau 1-2 năm mùi thơm mới xuất hiện (Hình dưới)
HÌNH VẼ LONG DUYÊN HƯƠNG (LONG DIÊN HƯƠNG) - Ambra grisea - Nguyên liệu làm Thuốc nguồn gốc động vật
Long duyên hương là những cục trong mờ, to nhỏ không đều, có cục nặng tới 5-6kg, có người nói có thể nặng hàng tạ. Màu trắng, hoặc màu tro, có khi màu hơi đỏ nhưng cũng có khi màu đen xám, nổi lên mặt nước, nếm hơi ngọt, hơi chua, khi đun nóng chảy mềm như sáp, tan quá nửa trong cồn nóng, khi đốt có mùi thơm dễ chịu.

B. Thành phần hóa học

Trong long duyên hương có chừng 25% chất ambrein là một dẫn xuất của cholesterol, axit benzoic v.v...

C. Công dụng và liều dùng

Long duyên hương là một chất dùng làm thuốc và là một nguyên liệu quý trong kỹ nghệ hương liệu vì long duyên hương là một chất định mùi thơm cao cấp.

Đông y coi long duyên hương lợi khí, hoạt huyết làm giảm đau, sát trùng giống như xạ hương nhưng tác dụng có hơi kém hơn. Dùng trong những trường hợp ho, hen suyễn đau trong tim, trong bụng.

Ngày dùng 0,30 đến 1,5g.

Chú thích:

Ngoài vị long duyên hương, trong đông y, tây y còn dùng một vị có hình thức gần giống gọi là hổ phách (Amber).


HỔ PHÁCH

Còn gọi là huyết hổ phách, hắc hổ phách hồng tùng chi, huyết phách, minh phách.

Tên khoa học AmBer, Fossil resin, Succinum, Succinum e.x carbone.
HỔ PHÁCH - AmBer - Nguyên liệu làm Thuốc nguồn gốc động vật
Hổ phách là một vị thuốc ít dùng. Trước đây cả đông y và tây y đều hay dùng, nhưng hiện nay tây y gần như không dùng nữa, trái lại đông y còn có khi dùng.

A. Nguồn gốc của vị thuốc

Người ta cho rằng hổ phách là nhựa của một loài thông cổ hiện nay đã mất giống gọi là Pitynxylon succinifer Krauss. Có thể do một số loài khác nữa. Những cây thông này mọc thành rừng ở bờ biển châu Âu, châu Mỹ (Nam Mỹ). Những rừng thông này hiện bị vùi dưới biển, dưới đất trong những mỏ than.

Muốn có hổ phách người ta đào những mỏ than có hổ phách hoặc có khi người ta nhặt được ở bờ biển do bão táp phong ba ngoài biển đã đào những cục hổ phách chìm sâu dưới đáy biển lên, hất vào bờ, hoặc có khi phải lặn xuống biển sâu để mò.

B. Tính chất

Hổ phách là những cục to nhỏ không đều, màu vàng hay vàng đỏ, thường ngoài cùng phủ một lớp mờ, rất cứng rắn, khí vỡ vết vỡ tròn nhẵn, mờ hay trong mờ, không có vị gì, khi xát cục hổ phách vào vải hay miếng len cho nóng lên thì hổ phách sinh ra điện (hiện tượng này được Thalês tìm ra từ 600 năm trước công nguyên) đun nóng hổ phách tỏa ra một mùi thơm dễ chịu. Cục hổ phách có thể nặng tới 10kg. Không tan trong nước, tan một phần trong cồn, ête và clorofoc.

C. Thành phần hóa học

Trong hổ phách có rất ít tinh dầu. Khi cất khô, người ta sẽ đươc axit sucxinic (có loại hổ phách có ít, có loại có nhiều do đó có thể dựa vào tỉ lệ axit sucinic này mà phân biệt hổ phách này với hổ phách khác).

Ngoài ra thành phần chủ yếu của hổ phách là 3 chất nhựa: α, β và g.

Nhựa g còn gọi là sucxin (succin) không tan trong cồn và chiếm 70% trọng lượng của hổ phách. Sucxin chứa sucxino-resin, không xà phòng hóa được và phần xà phòng hóa được thành axit sucxinic và sucxinoresinola.

Trong phần tan trong cồn, người ta lấy được axit sucoxyabictic và axit sucxinoabie-tolic. Axit sucxinoabietolic là một ete axit, khi xà phòng hóa sẽ cho axit sucxinoxynvic, sucxinoabietola và bocneola.

D. Công dụng và liều dùng

Trước kia trong tây y có dùng hổ phách để làm thuốc chống co thắt dùng dưới hình thức thuốc xông, cồn thuốc v.v... hiện nay chỉ còn dùng làm một số vật trang sức.

Đông y coi hổ phách có vị ngọt (cam), tính bình, vào 4 kinh tâm, can, phế và bàng quang, có tác dụng an thần, định kinh, lợi tiểu tiện, tán ứ huyết. Dùng trong những trường hợp tâm thần bất định, hồi hộp mất ngủ, ngủ hay mê. sợ, tiểu tiện ra huyết, chữa mụn nhọt lâu lành.

Ngày dùng 1 đến 3g.


Trong sách cổ đông y cho rằng hổ phách hay làm hao mòn chân khí cho nên chỉ những người hỏa suy, thủy thịnh nên dùng còn những người hỏa thịnh thủy suy không nên dùng.

Nguyên Liệu Làm Thuốc trích từ nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của GS-TS Đỗ Tất Lợi





Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.