Còn gọi là thảo linh chi, ngu linh tử, hàn trước phần, hàn hiệu trùng phẩn, hàn hiệu điểu.
Tên khoa học Facces Trogopterum.
A. Nguồn gốc
Trước hết cần chú ý là vị ngũ linh chi cho đến nay ta vẫn còn phải nhập của Trung Quốc. Mà ngay tại Trung Quốc, nguồn gốc vị ngũ linh chi hiện cũng chưa xác định chắc chắn. Nhiều tài liệu cho rằng ngũ linh chi là phân một loại dơi Pteropus psclaphon Lay hoặc Pteropus dasymallus Temminck đều thuộc họ Dơi Pteropodidae. Có tài liệu lại xác định là phân của loài dơi Megachiroptera cùng họ.
Tuy nhiên, gần dây có tác giả đã nghiên cứu vị ngũ linh chi thấy trong ngũ linh chi không có những thức ăn thường gặp của các loài dơi, đã xác định ngũ linh chi là phân của một loài sóc bay chưa thấy ở nước ta Trogopterus xanthipes Milne-Edwrds thuộc họ Sóc bay Petauristidae.
Vào các tháng 10-12 người ta vào núi tìm những hang sẵn có ngũ linh chi lấy về, loại bỏ tạp chất phơi khô. Căn cứ hình dáng không giống nhau, người ta chia ra làm ngũ linh chi khối (hay đường ngũ linh chi) và tán ngũ linh chi. (ngũ linh chi vụn). Trước khi dùng còn phải sao lên.
B. Thành phần hóa học
Trong ngũ linh chi có chất nhựa, urê và axit uric.
C. Công dụng và liều dùng
Ngũ linh chi hiện nay còn là một ví thuốc dùng trong nhân dân.
Trong các tài liệu cổ, người ta cho ngũ linh chi có vị ngọt, tính ôn, vào kinh can. Có tác dụng thông lợi huyết mạch, hành ứ hết đau. Dùng chữa kinh nguyệt không đều, thấy kinh đau bụng, đẻ xong huyết xấu ra không hết sinh đau bụng, ngực đau, trẻ con bị cam; dùng ngoài chữa rắn, rết cắn.
Ngày uống 6-12g dưới hình thức thuốc sắc hay thuốc viên.
Đơn thuốc có ngũ linh chi
1. Chữa tử cung xuất huyết, đau bụng khi thấy kinh: Ngũ linh chi 10g, bồ hoàng 10g. cả hai vị sao vàng, tán nhỏ. Ngày uống 3 lần, mỗi lần uống 2-3g.
2. Đơn thuốc chữa cấn cắn: Khi bị rắn cắn, ngoài việc mở rộng vết thương và trên vết thương độ 1-2cm để nặn cho ra thật nhiều máu và dác để rút máu cho đến khi hết hay đỡ đau nhức, nhân dân thường dùng nhiều loại thuốc cho uống và đắp, thuốc hội hay rượu hội là một trong số đó, chế theo đơn sau:
Ngũ linh chi 20g, xuyên bối mẫu 24g, sinh nam tinh 24g, bạch chỉ 24g, quế 24g, bạch thược 12g, bạch đậu khấu 24g, hà thủ ô đỏ 40g, thanh phàn 24g, bào sơn giáp 24g, hùng hoàng 40g. Tất cả các vị thuốc tán nhỏ, ngâm với 1,5 lít rượu 35-40° trong 10 ngày, lấy ra cho uống. Nếu cần ngay có thể đun cách thủy trong 4 giờ, hoặc nếu cấp cứu thì nấu sôi trong bình có ống lạnh thẳng đứng trong 1 giờ là đem ra dùng được.
Khi bị rắn cắn, tùy theo nặng nhẹ, cho uống ngày 50ml rượu hội này, sau đó cứ cách 5 đến 10 phút lại uống 1 lần. Một ngày tối đa uống 150ml đến 200ml.
Ngoài việc uống rượu hội còn dùng bông thấm rượu hội xoa và băng nhẹ vào vết cắn để lấy nọc ra.
Tiếp tục ngày nào cũng uống cho đến khi hết đau nhức.
Nguyên Liệu Làm Thuốc trích từ nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của GS-TS Đỗ Tất Lợi
Nhận xét
Đăng nhận xét