Chuyển đến nội dung chính

Bồ Kết - Cây thuốc ngừa được SARS?

Trong khi Trung Hoa, Ðài loan và Canada đang phải vất vả đối phó với bệnh SARS, Việt Nam là nước đầu tiên được WHO công nhận là đã ngăn chặn được sự lan truyền của SARS.. và có những tin đồn.. là do ở xông hơi Bồ kết tại những bệnh viện.. và những nơi công cộng đông người lui tới (?). Bồ kết đã được dùng trong dân gian để gội đầu giúp mượt tóc, hơi bồ kết dùng để xông trong những đám tang, giúp trừ khử những mùi vương đọng.. 
Bồ Kết - cây thuốc ngừa được SARS?
Bồ kết, Gleditschia officinalis, thuộc gia đình thực vật Cesalpi naceae (hay Leguminosae), được dùng trong Ðông dược dưới tên Tạo giác (Tsao- chia=Zao-Jia). Anh ngữ gọi là Chinese honey locust fruit, soap bean.. 

Ðặc tính thực vật : 

Bồ kết thuộc loại cây thân mộc, cao 5-10m, thân có gai to và cứng chia nhánh. Lá mọc so le, kép lông chim, hình trứng thuôn dài, cỡ 25mm x 15mm, mép lá có răng cưa nhỏ. Hoa mọc thành chùm ở nách lá hay ở ngọn, màu trắng. Quả cứng, khi chín màu đen dài 10- 12cm , rộng 1-2 cm hơi cong, hay thẳng: trong quả có 10-12 hạt màu nâu cỡ 7mm; quanh hạt là một chất bột màu vàng nhạt. Bồ kết ra hoa vào tháng 5-7, và ra quả vào tháng 10-12. Bồ kết có nguồn gốc từ khu vực giữa Nam Trung Hoa và Bắc Việt Nam, được trồng hầu như khắp Việt Nam (Riêng đảo Cát Bà có đến 40 ngàn cây, cung cấp 40 tấn bồ kết mỗi năm) Bồ kết cũng được trồng tại Thái Lan, Ấn Ðộ. Quả được thu hái vào những tháng 10-11 lúc đang màu xanh hay vàng nhạt, phơi khô để lâu, đổi sang màu đen bóng. Riêng gai bồ kết (cũng là một vị thuốc) có thể thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất là từ tháng 9 qua đến tháng 3 năm sau (mùa đông-xuân), cũng được phơi khô.. 

Thành phần hóa học: 

Quả chứa: 

10% hỗn hợp Saponin loại triterpenic trong đó gồm Gleditsia saponin B->G, Australosid, Gledinin. , Gledigenin. 

Các hợp chất Flavonoids như Luteolin, Saponaretin,Vitextin Homo-orientin, Orientin. 

Men Peroxidase 

Ðường hữu cơ như Galactose, Glucose, Arabinose.. 

Các acid béo: Palmitic acid, Stearic acid, Oleic acid Linolic acid, Linoleic acid. 

Các sterols như Stigmasterol, Sitosterol 

Cerylacohol; tannins 

Gai bồ kết chứa : Gleditchia saponin B->G, Palmitic acid, acid béo , hydrocarbon như nonacosane, heptacosane.. 

Nghiên cứu của Duke trên hạt Gleditsia japonica, trồng tại Hoa Kỳ ghi nhận hàm luợng chất béo cao hơn 4.3% so với 2.8% nơi loài trồng tại Nhật. 

Ðặc tính dược học: 

Ða số những nghiên cứu về Bồ kết được thực hiện tại Trung Hoa, Nhật (tại Việt Nam cũng có một số công trình nghiên cứu về hoạt chất của bồ kết). 

Khả năng huyết giải: Bồ kết có khả năng huyết giải rất mạnh. 

Khả năng kháng vi trùng: Dung dịch ly trích bằng nước có tác dụng ức chế Escherichia coli, Eberthella typhosa, Pseudomonas aeruginosa, Proteus vulgaris và các vi trùng gram âm (in vitro). Hỗn hợp Saporanetin và Flavonoid trong Bồ kết có tác dụng chống một số siêu vi trùng trong đó có cả loại Coronavirus. 

Khả năng chống nấm: thử nghiệm in vitro cho thấy khả năng ức chế một số dermatophytes. 

Tác dụng long đờm: Saponins của bồ kết có tác dụng kích thích màng nhày bao tử tạo phản xạ gia tăng chất bài tiết nơi ống hô hấp, giúp tống xuất chất đờm.. Tác dụng long đờm này tuy đáng chú ý nhưng không mạnh bằng Radix Platycodi Grandiflori. 

Bồ kết trong Ðông Dược:

Dược học cổ truyền Trung Hoa dùng Quả Bồ Kết và Gai Bồ Kết làm 2 vị thuốc có tác dụng trị liệu khác nhau. Theo các Danh Y cổ tại Trung Hoa như Lôi Hiệu, Vương Hiếu Cổ (đời Nguyên), Lý thời Trân,.. Tạo giác đi vào Kinh Quyết Âm, lợi được 'cửu khiếu', sát được tinh vật, chữa được nhửng chứng bụng trướng. Ða số các phương thức điều trị ghi trong 'Giản Yếu tế chúng phương', 'Ngoại đài bí yếu phương', 'Thiên kim phương'.. đều dùng Bồ kết (thiêu tồn tính) tán thành bột, thổi vào mũi hay hoà nước để uống.. 

Danh y Cù Hi Ung (đời Minh) luận về Tạo giác trong 'Bản thảo Kinh sơ' như sau: 'Tạo giác đi vảo Túc quyết Âm kinh và Thủ Thái Âm, Dương Minh kinh.. Vì Quyết Âm là tạng Phong Mộc.. nên chính chủ là Phong Tí (Tứ cơ tê bại, đầu phong làm chảy nước mắt..) đều do Kinh Quyết Âm phong mộc gây ra bệnh. Tạo giác bẩm thụ tính tân tán, lợi các quan khiếu bình được mộc khí nên phá được phong tà.. 

Quả Bồ Kết:

Quả Bồ Kết hay Tạo Giác (Zao jiao) (Nhật dược gọi là sòkaku; Ðại hàn là Chogak), ghi chép trong Thần Nông Bản thảo, được xem là có vị chua, tính ấm và có độc tính nhẹ, tác dụng vào các kinh mạch thuộc Phế (Phổi) và Ðại tràng. 

Tạo Giác có những tác dụng và được dùng như sau: 

Tán đờm: dùng trong các trường hợp Ðờm đọng, ho và thở khò khè do đờm nghẽn không thể tống xuất nơi họng. Tạo giác được phố hợp với Ma hoàng (Ephedra) và Mật heo để trị Sưng phổi kinh niên có những triệu chứng ho, thở khò khè, nặng ngực và đàm dính nơi họng. 

Thông khiếu và Tái sinh Thần: dùng trong các trường hợp bị bất tỉnh, tê nơi mặt hay phong giựt, cứng hàm do đờm dư ứ; thường phối hợp với Tế tân (Radice Asari= xi xin), bằng cách thổi bột vào mũi. 

Phát tán khối u và làm giảm sưng phù : để trị các mụn nhọt mới bắt đầu sưng ấy hay nhọt sưng mà mủ không thoát ra được Tạo giác được dùng phối hợp với Kim Ngân hoa Flos Locinerae Japonica (jin yin hua), khi nhọt bắt đầu sưng tấy; và với Rễ Bạch chỉ Radix Angelicae dahuricae (bai zhi) khi nhọt có mủ mà không thoát ra được. 

Khi dùng dưới dạng 'thuốc nhét hậu môn, Bồ kết có tác dụng xổ, tống xuất giun đủa.. 

Gai Bồ Kết:

Ðông dược dùng Gai Bồ kết (Spina Gleditsiae) (Tạo Giác Thích = Zao jiao ci) làm một vị thuốc riêng. Tạo Giác Thích được xem là có vị cay, tính ấm, tác dụng vào các kinh mạch thuộc Can và Vị. 

Tạo Giác Thích có khả năng làm giảm sưng phù, thoát mủ, tái tạo huyết và giảm khối u. Gai Bồ kết thường được dùng vào giai đoạn khởi phát của nhọt giúp tạo mủ và làm vỡ miệng của nhọt ung. Gai Bồ kết cũng tống xuất phong, diệt ký sinh trùng, nên được dùng trị 'hắc lào' và phong cùi. Không được dùng nơi phù nữ có thai hay khi nhọt đã vỡ miệng. 

Bồ kết trong Nam dược:

Bồ kết được sử dụng khá phổ biến trong Dược học cổ truyền Việt Nam và trong sinh hoạt dân gian: 

Quả Bồ kết đem ngâm hay nấu lấy nước để gội đầu, làm sạch gầu, mượt tóc. 

Nước nấu Bồ kết dùng để giặt quần áo len, dạ.. không làm phai mầu hay hoen ố. 

Quả Bố kết (cả hạt) đốt cháy, tán thành bột , thổi vào mũi để trị trúng gió,hôn mê, bất tỉnh; có thể phối hợp với Bạc hà giúp mau hắt hơi, hồi tỉnh. Xông khói Bồ kết có thể giúp trị nghẹt mũi, khó thở. 

Bồ kết đốt (tồn tính), tán thành bột, trộn với dầu mè làm thuốc nhét hậu môn, giúp thông hơi từ ruột (trung tiện sau khi mổ; thông đại tiện, trị giun kim. 

Quả Bồ kết tán thành bột mịn, đắp vào chân răng để trị sâu răng, làm nhức răng. 

Nước ngâm bồ kết dùng gội cho trẻ để trị chóc đầu, có thể đắp thêm bột Bồ kết đà đốt thành than để giúp mau lành.. 

Tài liệu sử dụng:

Chinese Herbal Medicine Materia Medica (Dan Bensky) 

Oriental Materia Medica (Hong-Yen hsu) 

Từ Ðiển Cây thuốc Việt Nam (Võ văn Chi) 

Jade Remedies (Peter Holmes) 

Medicinal Plants of China (J Duke & E Ayensu)

Bài viết trích từ nguồn: Tự Điển Thảo Mộc Dược Học - DS. Trần Việt Hưng




Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.