Chuyển đến nội dung chính

HẸ (Garlic chive) - Thuộc gia đình Hành, nhưng có nhiều điểm khác biệt

Tại Hoa Kỳ, Hẹ thường hay bị nhầm với Hành tăm, tuy là hai cây rất tương cận nhưng Hẹ, rất thông dụng tại Á đông, có nhiều dược tính đặc biệt hơn.. 
HẸ (Garlic chive) - Thuộc gia đình Hành, nhưng có nhiều điểm khác biệt
Hẹ hay Garlic chives, Oriental chives.. có nguồn gốc tại vùng Ðông Nam Á, và được trồng hầu như khắp Á châu và được dùng làm thuốc tại Trung Hoa từ hàng ngàn năm. Tại Hoa Kỳ, hẹ được dùng phần lớn làm cây cảnh tô điểm thêm màu sắc cho các khu vườn.

Tên Chinese Chive cũng còn được dùng để gọi loại Hẹ cho hoa thơm mùi hành, Chinese leek flower hay Allium odorum. (Ðiểm khác biệt giữa hai loài là A. odorum trổ hoa, nở và tàn trong suốt mùa hè - thu, không như A. tuberosum chỉ trổ hoa vào cuối hè; ngoài ra lá A. odoratum khi ăn có vị dai hơn) 

Tên khoa học và các tên thông thường: 

- Allium tuberosum thuộc họ thực vật Alliaceae.

- Các tên gọi: Garlic chive, Chinese chive (Anh Mỹ).

- Tại Trung Hoa: Cửu thái (Jiu cai), Phiến thái (Bian cai= cây rau phẳng). Zhuang yang cao, qi yang cao, và chang sheng-jiu..

- Tại Nhật: Nira hay Nira chive.

- Tại các chợ thực-phẩm ở Hoa Kỳ: có đến 4 loại hẹ được bày bán.

* Chinese hay Garlic chives: Gau choy lá xanh đậm rất thơm mùi tỏi (loại này là Hẹ (VN), Nira (Nhật), Ku cai (Mã lai). 

* Yellow chive hay Chive shoot: Gau wong: lá vàng-xanh, có thoảng mùi hành. Ðây là loại hẹ trồng trong nhà mát, tránh ánh sáng mặt trời để lá không chuyển sang màu xanh.. còn gọi là blanched Chinese chives. 

* Flowering chive: Gau choy fa, lá kết thành vòng, có nụ hoa nơi ngọn Cây hẹ để đến độ trưỡng thành hoàn toàn, giữ luôn cả nụ hoa. Cọng hơi cứng ở phần dưới. Còn có những tên Gau choy chow sin. 

* Và còn có loại: Gau choy sum: Hẹ trưởng thành, chỉ giữ phần lá nơi tâm của cây. 

Ðặc tính thực vật: 

Hẹ thuộc loại cây thân thảo, lưu niên, có thể mọc cao 20-50 cm, thân mọc đứng hình trụ. Lá ở gốc thân, hình dải, phẳng-hẹp, có rãnh, dài 15-30 cm, rộng 1.5-7 mm. Hoa mọc thành tán, màu trắng, ở đầu một cán hoa dài 20-30 cm. Mỗi tán có đến 20-40 hoa có mo bao bọc. Bao hoa màu trắng, gồm nhiều phiến thuôn. Quả thuộc loại nang quả hình trái xoan ngược chia ra làm 3 mảnh, trong có chứa 6 hạt nhỏ màu đen. Hẹ thích hợp với đất pha cát, cần nhiều ánh nắng, có khả năng chịu hạn nhưng cũng phát triển mạnh nơi đất ẩm, cạnh hồ,ao.. 

Tục ngữ Anh Mỹ ghi: 'Chives next to roses creates posies', do ở nhận xét là những cây thuộc gia đình hành-tỏi chứa nhiều sulfur nên diệt được các loài nấm mọc phá hại lá hoa, nhất là hoa hồng, gây ra các đốm đen.. 

Hẹ cũng được lai tạo để có những chủng đặc biệt như; Chủng 'Mauve' cho hoa tím nhạt. 

Thành phần dinh dưỡng và hóa học: 

- Thành phần dinh dưỡng: Thành phần dinh dưỡng của Hẹ tương đối khá giống với Hành tăm.100 gram phần lá ăn được cung cấp: 
HẸ (Garlic chive) - Thuộc gia đình Hành, nhưng có nhiều điểm khác biệt

- Một số nghiên cứu về thành phần hóa học của Hẹ ghi nhận: 

Trong Hạt có các saponins loại spirostanol: Tuberoside J, K và L.. các hợp chất nicotianoside C, beta-D-glucopyranoside, daucosterol, adenosine và thymidine; một hợp chất chuyển hóa loại Sphingosin: tuber-ceramide; các oligoglycosides loại pregnane và furostane.

Toàn cây có chứa các chất dễ bốc hơi, trong đó khoảng 27 hợp chất có chứa sulfur các loại như sulfide, disulfides, trisulfides và tetrasul fides với các nhóm hoạt tính ethyl, butyl and pentyl.. 

Trong đọt non có những lectin loại kết nối với mannose.. 

Lá Hẹ chứa: tinh dầu dể bốc hơi gần tương tự như hành tăm. 

Các nghiên cứu dược học về Hẹ: 

- Nghiên cứu tại ÐH Y Khoa Hong Kong ghi nhận lectin A Tuberosum (ATL) ly trích từ hẹ là một protein chỉ có một dây (monomeric), có trọng lượng phân tử 13 kDa, sự sắp xếp các amino acid ở cuối dây N tương tự với lectin ly trích từ hành tây (Allium cepa). Lectin này kết nối với mannose, có tác dụng kết tụ hồng cầu đối với huyết cầu thỏ và có hoạt tính diệt tế bào u-bướu ung thư lá lách ở chuột và ức chế được men transcriptase nghịch chuyển nơi siêu vi trùng HIV loại 1. (Journal of Protein Chemistry Số 20-2001). 

- Nghiên cứu tại Khoa Thực phẩm-Dinh dưỡng, ÐH Sunchon, Korea ghi nhận các hợp chất S-Methyl methanethiosulfinate và S-methyl 2 propene-1-thiosulfinate, trích từ hẹ có khả năng diệt được E.coli O-157: H7 là vi khuẩn gây hư hại thực phẩm (Bioscience Biotechnology Biochemistry Số 65-2001).

- Nghiên cứu tại Viện Dược liệu, Viện Khoa Học Trung Hoa, Shanghai ghi nhận Tuberosides, ly trích từ hạt Hẹ có tác dụng ức chế đáng kể sự tăng trưởng của tế bào ung thư loại leukemia dòng HL-60 ở nồng độ IC50 là 6.8 microg/ml (Journal of Asian Natural Products Research Số 4-2002).

Vài phương thức sử dụng: 

Tại Trung Hoa: Hẹ được dùng rất phổ biến để chữa bệnh trong dân gian.

* Mệt mỏi, đổ mồ hôi đêm; lao lực: Dùng hẹ chung với thịt ngao, chem chép. Nấu thành súp, thêm dầu đậu phọng và muối để tăng vị. Có thể thêm ít rượu trắng trước khi ăn. Chia ra thành 2-3 lần trong ngày. 

* Nuốt phải mảnh thủy tinh, mảnh sắt-thép vụn..: Dùng 250 gram hẹ, cắt thành từng khúc 30-50 cm. Ðun đến chín. Nhai lá hẹ và nuốt.

* Có cảm giác tức, nghẽn nơi hoành cách mô: Nghiền lá hẹ lấy nước, uống từng hớp nhỏ thật chậm, hay có thể pha 1 thìa caphê nước ép từ lá hẹ vào nửa cup sữa, đun đến vừa sôi, nhấp từng ngụm khi còn ấm. 

* Trẻ em bị rôm sẩy: Dùng 60 gram hẹ và 60 gram rượu trắng (hay vodka). Thái vụn hẹ và đảo trên chảo nóng đến chín. Thêm rượu trắng, trộn đều. Dùng băng gạc thấm rượu/hẹ và thoa nơi rôm sẩy trong 10-15 phút. Thoa mỗi ngày một lần trong 7 ngày liên tục.. 

* Côn trùng bò vào tai: lấy lá hẹ giã nát, vắt lấy nước, nhỏ vào tai ít giọt, côn trùng sẽ bò ra. 

* Trị bất lực, Ðau lưng mỏi gối, Bần tinh, Huợt tinh: 

- Nghiền nát 10-15 gram hạt hẹ, thêm vào rượu trắng theo tỷ lệ 1 phần hạt trong 5 phần rượu. Ngâm trong 1 tuần lễ. Uống mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 15 ml sau khi ăn. 

- Lấy 250 gram lá hẹ và 50 gram nhân walnut, thêm ít dầu mè, đảo khô đến khi chín. Ăn mỗi ngày một lượt, và tiếp tục trong 1 tháng.

Hẹ trong Ðông Y: 

Ðông Y hay Y học cổ truyền Trung Hoa đã sử dụng Hạt Hẹ làm thuốc từ hàng ngàn năm. Vị thuốc được gọi là Cửu tử (Jiu zi) hay Cửu thái tử (Nhật dược =Kampo gọi là kyùshi và Triều tiên là picha). 

Những Danh Y trong Ðông y cổ qua nhiều thời đại đều ghi nhận tác dụng của Cửu tử: 

* Sách 'Nhật-Hoa Chư gia bản thảo (Ðời Tống) ghi rằng Cửu tử có tác dụng trị được 'Mộng tinh'. 

* Lý thời Trân (Ðời Minh): Cửu tử bổ Can, trợ Mạch môn trị được chứng đi tiểu nhiều, tiểu són.. 

* Cù Hy Ưng (Ðời Minh): Cửu tử vào được Kinh Quyết Âm Can và Kinh Thiếu Âm Thận nên trị được Mộng tinh, tiểu ra máu.. 

* Hoàng cung Tú (Ðời Thanh) ghi trong Bản thảo cầu chân một số tác dụng trị Mộng tinh, Di tinh, Bạch trọc, Bạch đới của Cửu tử.. 

Cửu tử được cho là có vị cay/ ngọt, tính ấm tác dụng vào các kinh mạch thuộc Thận, Can. Cửu tử có những khả năng 'ôn trung, trợ Vị khí, điều hòa Tạng-phủ, hạ nghịch Khí, cố Thận Tinh, tán ứ Huyết' 

* Cửu tử có tác dụng làm ấm Thận, bổ Dương, và kiên Tinh nên được dùng để trị các chứng bất lực, bần tinh, đi tiểu nhiều lần; huyết trắng của phụ nữ, đau lưng, lỏng gối. Cửu tử thường được phối hợp với Long cốt (Os Draconis=Lung gu) và Tổ bọ ngựa (Tang phiêu diêu =Sang piao xiao) để trị các chứng Suy Thận Dương gây ra bần tinh, huyết trắng, đái đêm nhiều lần..

* Cửu tử có thêm tác dụng làm ấm Vị, cầm được ói mửa, dùng trong các trường hợp Hàn nơi Vị. 

(Theo DS Bùi Kim Tùng: ''Hoa Hẹ có tác dụng làm ấm Thận cùng làm ấm Bào trung. Bào trung là biển của Kinh-Mạch Lục Phủ, Ngũ Tạng đều thọ Khí nơi đây. Bào trung là nơi giao hội của tiên thiên Thận Khí và hậu thiên Vị Huyết. Các bộ phận tiền âm, hậu âm và cơ quan sinh dục đều thuộc Tạng Thận. Hoa Hẹ làm mạnh các cơ quan này, Khí-Huyết thông suốt nên các bệnh tật đều thuyên giảm. Các chứng tụ huyết, u xơ tử cung, u tuyến tiền liệt có thể do huyết ứ, khí trệ sinh ra. Hoa Hẹ đả thông huyết mạch ở vùng này..khiến mọi chứng đều thuyên giảm..'' (Món ăn Bài thuốc Quyển 2).

Cũng theo DS Tùng thì Hoa Hẹ có thể giúp trị được hội chứng 'Chân bị nhức, tê như kiến bò trong xương.. (Restless Leg Syndromes) do ở tác dụng đả thông Xung mạch.. 

Tài liệu sử dụng: 

- Vegetables as Medicine (Chang Chao-liang).

- Chinese herbal Medicine Materia Medica (Bensky & Gamble).

- Medicinal Plants of China (J. Duke & Ed. Ayensu). 

- The Oxford Companion to Food (Alain Davidson). 

- Chinese Vegetables (Kari Harrington).

Bài viết trích từ nguồn: Tự Điển Thảo Mộc Dược Học - DS. Trần Việt Hưng



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.