Chuyển đến nội dung chính

HOA HÒE - Vị thuốc cầm máu - Hy vọng mới cho Bệnh nhân sưng gan do Siêu vi C?

HOA HÒE - Vị thuốc cầm máu - Hy vọng mới cho Bệnh nhân sưng gan do Siêu vi C?
Trong bài ‘Thảo mộc trong cổ văn Việt Nam’, (Nguyệt San Việt Nam Canada) nhà văn Vỏ Kỳ Điền đã viết về một số cây cỏ, trong đó Ông đã chú ý đến một cây hoa, được nhắc nhở khá nhiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: đó là Cây Hòe.

Tiếng sen sẻ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần

hay

Thừa gia chẳng nết nàng Vân
Một cây cù mộc, một sân quế hòe

và.

Sân hòe đôi chút thơ ngây
Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình

Trong Lục Vân Tiên, cụ Nguyễn đình Chiểu cũng viết:

Buồn trông dặm liễu, đường hòe

Tông Sophora (Hòe) thuộc họ thực vật Papillionaceae (Fabaceae) gồm khoảng 50 loài có thể là tiểu mộc hay bụi, phân bố khá rộng rãi tại các vùng khí hậu ôn đới Bắc bán cầu, tuy nhiên cũng có những loài riêng mọc tại Úc và Tân Tây Lan. Đa số Sophora là những cây mọc thoáng, phân cành nhiều, lá kép hình lông chim, mọc cách và có hoa mọc thành cụm dạng hoa đậu, nở vào mùa xuân hay hè.

Tên Sophora phát xuất từ tên gọi của cây theo tiếng Ả Rập sufayra là tên gọi chung cho các cây thuộc gia đình đậu.

Những cây đáng chú ý trong tông Sophora:
HOA HÒE - Vị thuốc cầm máu - Hy vọng mới cho Bệnh nhân sưng gan do Siêu vi C?
- Sophora chrysophylla: loài đặc trưng của Hawaii, mọc thành bụi rậm cao đến 3 m. Hoa màu vàng tươi.

- Sophora flavescens (Xem phần dưới)

- Sophora japonica: (Xem phần dưới)

- Sophora microphylla: gốc từ Tân Tây Lan, thuộc loại tiểu mộc, lá xanh quanh năm, mọc cao đến 5m. Lá giống như loại ráng, hoa vàng xâm mọc thành chúm dầy đặc.

- Sophora secundiflora = Mescal bean, Coral bean, Texas Mountain Laurel, loài đặc trưng của Bắc Mỹ, mọc cao đến 8m, hoa màu xanh-tím, hạt màu đỏ, được thổ dân dùng trong các nghi thức tôn giáo do đặc tính gây ảo giác của hạt (chứa cytisine có hoạt tính như nicotine trong thuốc lá)

- Sophora tetraptera: hay Kowhai = New Zealand laburnum. Hoa được dùng làm hoa biểu tượng (emblem) cùa Nước New Zealand. Mọc cao đến 12m, hoa màu vàng tươi, rất đẹp.

- Sophora tonkinensis: loài đặc trưng của Bắc Việt nam (Xem phần dưới).

- Sophora tomentosa hay Silverbrush: Hòe lông, cũng gặp tại Việt nam. Hoa màu vàng xám

Các cây hoè dùng làm thuốc:

Trong nhóm Sophora có 3 cây được dùng làm thuốc trong Dược học cổ truyền Trung Hoa, Nhật, Việt Nam, và được dùng để trị những bệnh khác nhau tùy từng cây.
HOA HÒE - Vị thuốc cầm máu - Hy vọng mới cho Bệnh nhân sưng gan do Siêu vi C?

1. Hoè (Sophora japonica):

Các tên khác: Japanese pagoda tree, Chinese scholar tree, Arbre des pagodes (Pháp).

Cây được trồng từ lâu đời tại Nhật, Trung Hoa và các quốc gia Đông Nam Á, được xem là có nguồn gốc tại Trung Hoa, Triêu Tiên. Tại Việt Nam cây thường gặp tại miền Bắc, và miền rung, hiện được trồng thêm tại Cao Nguyên Trung phần.

Cây thuộc loại trung bình, cao 5-6 mì (có thể đến 20 m) Thân nhẵn màu xanh lục nhạt có những đốm trẳng khi già trờ thành xám. Lá kép hình lông chim lẻ, mọc so le, gồm 9 đến 17 lá chét (hay lá phụ) mọc đối. Cuống chung mảnh, mặt trên có rãnh. Lá chét hình bầu dục thuôn, dài 30-40 mm rộng 10-15 mm; mặt trên xanh lục xâm, mặt dưới xám nhạt, nhám và có lông. Hoa nhỏ có cánh cờ lớn lật ra phía sau, màu trắng hay vàng-xanh nhạt, có mùi thơm, mọc thành chùm ở đầu cành.Màu hoa phai dần sau khi nở và rụng sau vài ngày.

Quả đậu dài 5-8 cm, thắt eo ở giữa các hạt thành một chuỗi, khi khô màu nâu đen, nhăn nheo, chứa từ 4-6 hạt hình bầu dục, hơi dẹt, đen bóng. Cây trổ hoa vào các tháng 5-8, ra quả vào tháng 9-10.

Gỗ, vỏ thân và quả cung cấp một loại phẩm màu vàng (dùng nhuộm tơ tại Trung Hoa)

Có những ‘chủng trồng’ = cultivars đặc biệt như:

- Pendular = Weeping pagoda tree (Hòe rũ) có cành rũ xuống, thường thuộc loại cây ghép, rất ít khi trổ hoa. Mọc cao chừng 3m.

- Tortuosa có cành cong queo.

- Violacea, hoa màu tím lilac.

- Columnaris, tán hẹp mọc thành hình tháp.

Cây tuy có thể mọc tại Âu châu, trổ hoa vào cuối hè nhưng không cho quả. Tại những vùng có mùa hè thiếu nóng, ẩm, cây khó trổ hoa.

2. Hòe Bắc Việt Nam (Sophora tonkinensis = S.subprostrata)

Các tên khác: Quảng đậu, Sơn đậu, Pigeon pea

Đây là loài Hòe đặc trưng của Bắc Việt nam, chỉ gặp tại những vùng Nam Trung Hoa, và Bắc Việt cho đến Đà Nẵng.

Cây mọc thành bụi, cao 1-2 m thân hình trụ, có lông mềm. Lá kép mọc so le, có 11 đến 15 lá chét mọc đối. Lá chét dầy, thuôn hay hình bầu dục dài 3-4 cm, rộng 1-2 cm, mặt trên nhẫn và óng ánh, mặt dưới có lông. Cụm hoa mọc thành chùm ở nách lá. Đài hoa hình chuông, bên ngoài có lông. Tràng hoa mầu vàng. Quả dài 4 cm, có lông, tự mở, có chứa hạt hình trứng, đen bóng.

3. Dã hòe hay Khổ sâm (Sophora flavescens = Yellow Pagoda tree)
HOA HÒE - Vị thuốc cầm máu - Hy vọng mới cho Bệnh nhân sưng gan do Siêu vi C?

Tên khác: Khổ cốt

Có nguồn gốc tại Nhật, Trung Hoa, Siberia và Korea. Cây mọc thành bụi cao đến 1.5m. Rễ hình trụ dài, vỏ ngoài màu vàng-trắng. Lá kép hình lông chim dài 25 cm mang từ 15-40 lá phụ, hẹp thuôn hình mũi mác 2-5 cm. Hoa màu vàng-xanh nhạt, đôi khi tím, mọc thành chùm ở nách lá. Quả đậu dài khoảng 8-12 cm, đường kính 5-8mm, có mỏ thuôn, chứa 3-7 hạt hình cầu, màu đen.

Thành phần hóa học:

Hạt Hòe (Sophora japonica) chứa các hợp chất:

- Các Alkaloids loại Quinolizidin (0-0.04%) như Cytisine, N-methyl cytisine, Matrine, Sophocarpine.

- Các Fiavonoids (1.75%) như Rutin (có thể đến 0.5%), Sophorine.

- Các Polysaccharides như galactomannans: Thành phần của các galactomannan thay đổi tùy theo phương pháp chiết xuất, dùng nước lạnh hay nước nóng; sự khác biệt do ở tỷ lệ giữa mannose và galactose (PubMed- PMID:15553793).

- Dầu béo (6.9-12.1%)

- Proteins (17.2-23 %).

- Các khoáng chất: 100 gram hạt chứa 265mg Calcium, 272mg Phosphorus, 1,066 mg Potassium.

Hoa Hòe chứa nhiều rutin (có thể đến 34%, nhất là trong nụ hoa chưa nở), ngoài ra còn có các saponins khi thủy phân cho betulin, sophoradiol, sophorin A, B và C.

Vỏ quả có flavonoids (10%) gồm cả các chất chuyển hóa như genistein, sophoricoside (hay genistein-4’-glucoside), sophorabioside (phần biose gồm glucose và rhamnose), kaempferol, rutin..; Sophorose

Rễ cây có: (D,L)-Maackian, Amhydropisatin, Pterocarpane, Sophoja ponicin, Flavonoids..

Trong Rễ của Sophora tonkinensis (Sơn đậu) có các alkaloids (0.93%) loại quinolizidine như: cytisine, sophocarpine, matrine, lehmamnine, sophoranol, oxymatrine và oxysophocarpine; ngoài ra còn có anagyrine, sophoranochromene, sophoradin, genistein maackian.. các saponins loại triterpenoid như sophor-neoanochromone.

Trong Rễ của Sophora flavescens có:

- Các flavonoids thuộc nhóm prenylflavonoids và lavandulylflavonoids như 9-prenylkempferol, kushenol X, norkurarinone, leachianone A, kushenol C, maackiain. (Planta Medica Số 71-2005)

- Các alkaloids loại matrine như matrine, sophoridine, sophocarpine, lehmannine, sophoramine, oxymatrine, Oxysophocarpine, cytosine và aloperine

Các nghiên cứu khoa học về Hòe:

Hoạt tính cầm máu:

Hoa Hòe đã được sử dụng lâu đời trong Dược học cổ truyền Trung Hoa, Ấn độ, Việt Nam để làm thuốc cầm máu.

Nghiên cứu tại Viện Dược liệu Trung Hoa Bắc Kinh) tìm hiểu về hoạt tính cầm máu của Hòe (S. japonica) dưới các dạng chế biến khác nhau như dạng hoa tươi, hoa sao, và thiêu thành than, các dạng chiết và tinh chế bao gồm rutin, quercetin và tannins. Kết quả ghi nhận: khi cho thú vật thử nghiệm uống trong 5 ngày liên tục, Thời gian chẩy máu (bleeding time=BT), Thời gian đông máu (coa gulation time=CG), Độ thẩm thấu vi mạch (Capillary permeability=CP) đều giảm hạ nơi chuột thử nghiệm. Thơi gian prothrombin (PT) cũng giảm. Cà 3 dạng chế biến đều làm tăng lượng fibrinogen. Ngoài ra các dạng chiết đều giúp tăng số đếm tiểu cầu. Dạng sao đến vàng được xem là có hoạt tính mạnh nhất (PubMed, PMID: 15609601).

Hoạt tính chống ung thư của Sophora tonkinensis:

Liều 60 gram/kg Rễ S.tonkinensis có hoạt tính khá rõ trị ung thư cổ tử cung nơi chuột thử nghiệm, có tác dụng ức chế chống Sarcoma 180. Hoạt tính hóa chất trị liệu của oxymatrine mạnh gấp 7.8 lần so với Mitomycin C. Khi thử dùng để trị các trường hợp ung thư máu loại Acute lympho cytic hay granulocytic, dược liệu cho thấy có hoạt tính ức chế dehydrogenase và sự hô hấp của tế bào.(Chinese Herbal Medicine Materia Medica-Dan Bensky & A. Bensky).

Tác dụng kháng sinh của S.tonkinensis:

S.tonkinensis có hoạt tính kháng sinh mạnh chống lại vi trùng lao (Mycobacterium tuberculosis), Staphylococcus (đặc biệt là Staphylococ cus aureus đã kháng methicillin, chống lại các nấm gây bệnh như Epidermophyton và Candida albicans. (Journal of Ethnopharmacology Số 50-1996)

Hoạt tính chống Siêu vi trùng của Sophoridine:

Sophoridine, ly trích từ Dã hòe (Khổ sâm)-Sophora flavescens có hoạt tính chống siêu vi trùng Coxsackievirus B3 (CVB3), là tác nhân chính gây sưng cơ tim (myocarditis) cấp tính và kinh niên, hoạt tính này do ở tác động trên tiến trình chuyển biến cytokine nơi tế bào cơ tim (Life Sciences Số 22 (Nov)-2005).

Tác dụng chống loạn nhịp tim của Sophora flavescens:

Khổ sâm được dùng tại các Bệnh viện Trung Hoa làm thuốc trị loạn nhịp tim. Thuốc có tác động làm chậm nhịp tim, gia thời gian chuyển dẫn nơi tim và gây giảm phản ứng kích ứng cơ tim. Các hoạt tính này không bị ảnh hưởng bởi các tác nhân atropin nor-beta-adrenergic. Khi chích cho mào, qua tĩnh mạch, dung dịch 100% S. flavescens liều 1 ml/mg cho thấy có sự giảm nhịp tim đồng thời với sự gia tăng lưu lượng máu qua động mạch vành. Các nghiên cứu ghi nhận d-matrine có tác dụng chống loạn nhịp tim nơi thú vật do hoạt động ức chế trực tiếp bắp thịt tim; hoạt tính chống loạn nhịp có tác động trên các loại loạn nhịp gây ra bởi aconitine, chlorure barium, hay do cột thắt động mạch vành. (The Pharmacology of Chinese Herbs- Kee Chang Huang)

Hoạt tính bảo vệ Gan của Oxymatrine, trích từ Sophora flavescens:

Oxymatrine, ly trích từ S. flavescens có tác dụng bảo vệ tế bào gan chống lại những hư hại gây ra do các gốc tự do và các cytokines tạo phản ứng sưng viêm.. Càc hư hại này do hiện tượng apoptosis làm cho các tế bào tự hủy, có thể đưa đến sưng gan mãn tính. Khi chích cho chuột thử nghiệm (có đối chứng) Oxymatrine 30 phút trước khi gây cho chuột bị làm nghãn gan, kết quả ghi nhận số tế bào bị hư hại giảm thiểu, ALT va AST cũng giảm hạ đáng kể (ALT 61%; AST 73%). Oxymatrine ngăn chặn tiến trình apoptosis bằng cách tác động vào Fas và các ligand Fas (World dournal of Surgery Số 29 (Nov) 2005).

Tác dụng chống Siêu vi gây Sưng gan của Oxymatrine:

Oxymatrine đã được nghiên cứu về hoạt tính chống Siêu vi trùng gây sưng gan loại C tại các bệnh viện Trung Hoa từ 1999. Khi chích cho các bệnh nhân bị sưng gan do Siêu vi B, liều 600mg/ ngày: số lượng siêu vi trùng giảm hạ và tình trạng sơ gan cũng được cải thiện. Oxymatrine được ghi nhận là có tác dụng chống sự tái lập (replication) của siêu vi HCV khi thử trong phòng thí nghiệm trên môi trường cấy tế bào (Chinese Journal of Liver Diseases Số 9-2001). Thử nghiệm tại Trung Tâm Trị liệu bệnh Gan của BV Amoy (2002) trên 30 bệnh nhân Sưng gan di Siêu vi B, cho chích 400 mg/ ngày trong 3 tháng ghi nhận lượng vi trùng giảm rất rõ và gan được tái tạo. Thử nghiệm, có đối chứng, mù đôi, năm 2004 trên 216 bệnh nhân sưng gan do siêu vi loại B dùng oxymatrine, chích hay uống, trong 24 tuần cho thấy kết quả rất tốt (World dournal of Gastroen†erology Số 10-2004). Thử nghiệm kế tiếp rộng rãi hơn, trên 144 bệnh nhân sưng gan do siêu vi B hay C, chia thành 2 nhóm, đối chứng bằng placebo, cho uống 900 mg oxymatrine/ ngày trong 52 tuần đưa đến kết quả là lượng siêu vi trùng B hay C đều mất hẳn (negative) khi thử nghiệm và lượng ALT củng trở về mức bình thường. Sinh thiết tế bào Gan cũng cải thiện rỏ rệt. Ngoài ra, trong một nghiên cứu khác, so sánh hoạt tính của oxy matri ne (dùng chích) và TFN-a cho thấy oxymatrine có tác dụng tương đương với ìnterferon trong việc làm giảm lượng siêu vi mà không gây những phản ứng phụ độc hại (Chinese dournal of Digestive Disorders Số 5-2004). Mặt khác khi dùng oxymatrine chung với lamivudine để trị sưng gan do siêu vi, kết quả trị liệu tương đương với việc dùng interferon chung với lamivudine.

Các hợp chất ức chế Monoamine Oxidase trong Rễ Sophora flavescens:

Dịch chiết từ Rễ Sophora flavescens bằng methanol có hoạt tính ức chế MAO nơi óc chuột thử nghiệm. Trong dịch chiết này có 2 flavonoids là formononetin, kushenol F và các hợp chất oxymatrine, trifolirhizin và beta-sitosterol. Hai chất có tác động TMAO là formononetin (ức chế MAO-B ở nồng độ IC50= 11.0 microM và ức chế MAO-A, IC50=21.2 microM) Kushenol F cũng ức chế MAO-B ở IC50= 63.1 và MAO-A ở IC50= 103.7 microM.(PubMed: PMID 15789750)

Tác dụng dược học của Rutin:

Nụ hòe là một trong những nguyên liệu chính dùng để ly trích Rutin. Tỷ lệ rutin trong nụ hòe khá cao, có thể đến 34%. Một số hoạt tính sinh học của hòe là do ở rutin.

Rutin còn được gọi dưới khá nhiều tên như Eldrin, Oxerutin, Quercetin-3-rhamnoglucoside, Quercetin-3-rutoside, Rutosise, Sclerutin, Sophorin.

Rutin được xem là một chất chống oxy-hóa, một chất thu nhặt các gốc tự do và là một chất phức hóa sắt (Tron chelator). Rutin có tác dụng làm giảm sự dễ vỡ của vi mạch và giảm độ thẩm thấu của mạch máu, gia tăng sự bền chắc của mạch máu do đó có tác động bảo vệ ngăn ngừa huyết áp cao, cầm máu. Một số nghiên cứu khoa học ghi nhận rutin có thể giúp bảo vệ cơ thể chống lại tác dụng gây hại của asbestos (Free Hadical Biology Medicine Số 21-1996), giúp cơ thể chống các tác động gây độc hại cho tế bào của LDL đã bị oxyhóa (British dournal of Pharmacology Số 116-1995), bảo vệ bao tử chống lại tắc động của ethanol (Genetic Pharma cology Số 25-1994).

Khi dùng thêm trong chế độ ăn uống, Rutin cho thấy có tác dụng bảo vệ DNA chống lại các hư hại gây ra bởi các hóa chất độc gây ung thư gan.

Rutin còn được dùng chung với trypsin và bromelain để trị sưng xương khớp (osteoarthritis): Trong một thử nghiệm, mù đôi, có kiểm soát bằng placebo, 73 bệnh nhân bị sưng và đau đầu gối loại osteoarthitis, được cho dùng Phlogenzym (chứa 100 mg rutin, 48 mq trypsin và 90 mg bromelain) hay diclofenac (Voltaren) 50 mg, mỗi ngày 3 lần trong tuần thứ 1, sau đó ngày 2 lần trong các tuần thứ 2 và 3. Kết quả ghi nhận hiệu ứng tương đương nơi cả 2 nhóm (Clinical Drug Investigation Số 19-2000).

Khi thủy giải, Rutin cho một genin là Quercetin, một phân tử glucose và một phân tử rhamnose. Quercetin có hoạt tính làm chậm nhịp tim, gây giãn nỡ động mạch vành và tăng thể tích tâm thu.

Quercetin là một flavonol đã được nghiên cứu khá nhiều về hoạt tính chống ung thư. Trong 73 nghiên cứu, quercetin cho thấy có khả nẵng ức chế sự tăng trưởng của một số dòng tế bào ung thư như ung thư bao tử (FEBS Letter Số 260- 1990), ung thư máu (British dournal of Heamafo logy Số 79-7897). Liều tác động của Quercetin được ghi nhận là 1-50 microM.

Hoè trong Dược học cổ truyền phương Đông:

Dược học cổ truyền Phương Đông phân biệt các vị thuốc:

1. Hoài hoa mễ (huai hua mi) (Flos Sophorae Japonica Immaturus)

- Được dùng tại Trung Hoa từ khoảng năm 600 Tây lịch.

- Vị thuốc là nụ hoa của Sophora japonica, thu hoạch vào mùa hè trước khi hoa nở hoàn toàn. Cây được trồng trong các vùng Liêu Ninh, Hồ Bắc, Hồ Nam, Sơn Đông, An Huy. Tại Nhật, vị thuốc được gọi là kaikamai và tại Triều Tiên là koehwamii.

- Hoài hoa mễ được cho là có vị đẳng, tính hàn và tác động vào kinh mạch thuộc Can và Đại trường.

- Hoài hoa mê có các tác dụng:

+ Lương huyết’ và ‘cầm máu’, dùng trị các chứng liên hệ đến ‘Nhiệt-Thấp’ tại Đại trường có xuất huyết, nhất là các chứng chẩy máu do Trĩ, và tiêu ra máu; cũng dùng để trị thổ huyết (ói ra máu), khái huyết (ho ra máu).

+ Thường được phối hợp với Trắc bá diệp (ce-bai-ye)=Cacumen Biotae Orientalis để trị tiêu, tiểu ra máu, xuất huyết tử cung, thổ huyết và chảy máu mũi.

2. ‘Lương Can’, dùng trị đau mắt sưng đỏ, chóng mặt xây xẩm do Can nhiệt gây ra.

Dược học cổ truyền Trung Hoa còn sử dụng các dạng chế biến hoa hoè vào các mục tiêu khác nhau:

- Nụ hòe tươi để giúp làm sáng mắt;

- Hòe sao, thiêu để cầm máu và sao tẩm mật để bổ Phế.

- (Quả Hòe hay Hoài giác =Fructus Sophorae Japonicae, được cho là có hoất tính cầm máu kém hơn nụ hoa, nhưng lại thanh nhiệt tốt hơn nên thường được dùng để trị các cục trĩ sưng. Quả có tính ‘giáng Khí" nên tránh dùng khi có thai)

Tại Việt Nam hoa và quả hoè được dùng để làm thuốc cầm máu, trị sốt xuất huyết, huyết áp cao, trĩ sưng đau.

3. Sơn đậu căn (Shan-dou-gen) =Radix Sophorae Tonkinensis

- Vị thuốc là Rễ cây Hoè Bắc Việt (Sophora tonkinensis = Sophora subprostrata).

- Sơn đậu căn được chép trong Thái Bảo bản thảo từ năm 973.

- Nhật dược: Sanzukon; Triều tiên: Santugún.

- Sơn đậu căn được cho là có vị đẳng, tính hàn, tác động vào kinh mạch thuộc Phế, Đại trường.

- Sơn đậu căn có các tác dụng:

+ Thanh nhiệt, Trừ độc do Hỏa bốc lên và trị các chứng sưng và đau họng.

+ Thường được phối hợp với quả Ngưu bàng (Niu bang zi)= fructus Arctii Lappae và Rễ Kiết cánh (jie geng)= Radix Platycodi Grandiflori để trị các bệnh về cổ họng.

+ Thanh ‘Phế": trị ho do Phế-nhiệt. Trị các chứng hoàng đản do Nhiệt-Thấp

- Tại Việt Nam: Hoè Bắc việt được dùng trị sưng cổ họng, sưng chân răng bằng cách sắc uống.

4.. Khổ sâm (Ku shèn)= Radix Sophorae Flavescentis.

- Vị thuốc là Rễ Sophora flavescens, được ghi trong Thần Nông Bản thảo.

- Nhật dược: Kujin; Triều tiên: Kosam.

- Khổ sâm được xem là có vị đẳng, tính hàn, tác động vào kinh mạch thuộc Tâm, Can, Bàng quang, Đại và Tiểu trường.

- Khổ sâm có đặc tính:

+ Thanh nhiệt và khử Thấp thường dùng trị các chứng kiết ly, huyết trắng của phụ nữ, hoàng đản, sưng đau.

+ Trừ Phong, Diệt trùng, trị ngứa: dùng trong các trường hợp lở ngứa ngoài da do nhiệt-thấp; trị ngứa ngáy nơi bộ phận sinh dục.

+ Thanh nhiệt và giúp tiểu, trị các chứng bất ổn do Nhiệt-thấp nơi Tiểu trường, đi tiểu đau gắt.

+ Liều thường dùng 3-15 gram, có thể đến 30 gram nếu chế biến thành dạng savon hay thuốc thoa ngoài da.

- Tại Việt Nam: Khổ sâm được dùng đề trị kiết ly, chẩy máu trong ruột, đi tiêu ra máu. Nước sắc Rễ dùng rửa trị ngứa ngoải da. Bột rễ tán mịn dùng trộn với gluose và acid boric để trị sưng âm đạo do nhiễm Trichomonas..

Độc tính và Độ an toàn:

Theo Chế Dược Thư của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, liều tối đa khi dùng Rễ Khổ sâm hay Rễ Sơn đậu, dùng uống, cho người lớn là 9 gram/ngày. Liều gây độc là 30 gram. Liều cao Khổ sâm có thể gây hư hại thần kinh co giật, nhất là nơi trẻ em.

Liều LD50 của Oxymatrine được xác định là 521mg/ kg (theo Zhu Youping trong Chinese Materia Medica: Chemistry, Pharmacology and Applications)

Tài liệu sử dụng:

- Natural Medicines Comprehensive Database (Pharmacist’s Letter).

- Chinese Herbal Medicine Materia Medica (Dan Bensky & Andrew Gamble).

- The Pharmacology of Chinese Herbs (Kee Chang Huang).

- Medicinal Plants of China (J. Duke & Ed Ayensu).

- Oxymatrine, Update on Clinical Effects and Safety (S. Dharmananda) The A-Z of Garden Plants (Bay Book).

- Encyclopedia of Herbs (Deni Bown).

Bài viết trích từ nguồn: Tự Điển Thảo Mộc Dược Học - DS. Trần Việt Hưng



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.