Chuyển đến nội dung chính

MIMOSA – Hoa trình nữ

MIMOSA – Hoa trình nữ

Nắng chia nửa bãi, chiều rồi
Vường hoang trinh nữ xếp đôi lá sầu
(Huy Cận)

Mimosa hay hoa Trinh nữ (trong thơ của Huy cận và nhạc của Trần Thiện Thanh) còn được gọi là cây Mắc cỡ hay Xấu hổ, có nguồn gốc từ Mỹ châu nhiệt đới, lan truyền đến nhiều nơi tại Á châu và Phi châu nhiệt đới. Cây mọc hoang đại tại Việt Nam, nơi ven đường, bụi cỏ.

Tên Mimosa có thể gây nhầm lẫn với cây Keo tròn (Acacia podalyriaefolia), thường gặp tại Nam Việt Nam nhất là Đà lạt, là một cây loại tiểu mộc, hoa màu vàng tươi (trong thơ của Nhất Tuấn).

Tên khoa học và các tên thường gặp:

- Mimosa pudica thuộc họ thực vật Fabiaceae.

- Tên thường gặp: Shameplant, Touch-me-not, Hàm tu thảo (Trung Hoa), Sensitive (Pháp); Sensi tiva (Tây ban Nha), Adormidera; Feuilles Honte, Honte (Pháp); Memalu (Modesty), Puteri malu (Modest Prince); Sinnpflanze

Đặc tính thực vật:

Mimosa pudica thuộc loại thảo nhỏ, thân phân nhánh nhiều, có gai hình móc. Lá kép hình lông chim chẵn, hai lần nhưng cuống phụ xếp lại như hình chân vịt, khi khẽ đụng vào sẽ cụp lại. Mỗi lá mang 15-20 đôi lá chét. Hoa màu tím đỏ, nhỏ, mọc tập họp thành hình đầu, có cuống chung dài ở nách lá. Quả mọc thành cụm hình ngôi sao. Quả có chỗ thắt lại giữa các hạt và có nhiều lông cứng.

Lá mắc cỡ có một đặc tính kỳ diệu là khép lại rất nhanh và sau đó cụp cả cành xuống khi bị đụng đến. Đặc tính này đã được các nhà nghiên cứu Nhật giải thích là do ở tác động của một hợp chất protein loại gelsolin/fragmin trên sườn actin của cây, hoạt tính này tùy thuộc vào Ca(2+) (Journal of Biochemistry (Tokyo) Số 130-2001).

Thành phần hóa học:

Lá Mimosa pudica chứa:

- Alkaloid: Mimosine (hoạt chất chính), norepinephrine, crocetin, crocetin- dimethyl ether. Mimoside (glucosi de).

- Acid béo như Linoleic, linolenic, oleic, palmitic, stearic acid..

- Sterol thực vật: Sitosterol..

- Đường hữu cơ: D-xylose, D-glucuronic-acid.

- Acsorbic acid

- Flavonoids, Chất nhầy (mucilage).

- Khoáng chất: đặc biệt nhất là selenium

Dược tính và cách sử dụng:

Mimosa hầu như không được sử dụng trong Y-dược Tây Phương, nhưng được dùng tại Nhật, Ấn độ và Trung Hoa. Tại Việt Nam, cây cũng là dược liệu trong những bài thuốc Nam khá đặc biệt.

Tại Trung Hoa: Rể phơi khô được gọi là Hàm Tu thảo hay Han-shou-cao được dùng để trị bệnh thần kinh, và có đặc tính an thần. Liều thường dùng là 5-7g dưới dạng thuốc sắc. Phụ nữ có thai không nên dùng. Cây cũng dùng để trị vết thương do chấn thương và để cầm máu. (Kee Chang Huang- The Pharmacology of Chinese Herbs).

Theo Đông Y cổ truyền, Hàm tu thảo có vị ngọt, tính hàn nhẹ, hơi độc có tác dụng an thần, dịu đau, chỉ khái (trị ho), long đờm, lợi tiểu.

Tại Việt Nam: Cây thường được dùng để trị suy nhược thần kinh, mất ngủ, sưng phế quản, sưng gan, sưng ruột non, phong thấp, tê bại. Rễ được dùng trị sốt rét, kinh nguyệt hiếm.

- Để trị suy nhược thần kinh, mất ngủ: có thể dùng riêng mắc cỡ (15g) hay phối hợp với Cúc bạc đầu, Chua me đất (mỗi thứ 15 gram), sắc uống buổi tối khi đi ngủ.

- Để trị đau thắt ngang lưng, nhức mỏi gân cốt: Rễ mắc cỡ rang xong tẩm rượu, sao vàng sắc uồng (15-20 gram) hoặc phối hợp với Cúc tần ô, Rễ đinh lãng, Cam thảo dây.

Tại Ấn độ: Mắc cỡ hay chhuimui, lajwanti (Phạn ngữ: lajjo). Rễ dùng trị kiết ly, nóng sốt, đau buốt khi đi tiểu, sưng đau nướu răng. Lá để trị vết thương sưng tấy, bị gai đâm, phủ chân..

Các nghiên cứu Dược học về mimosa:

Hoạt tính chống nọc rắn độc:

Khả năng trung hòa nọc rắn độc của mimosa được nghiên cứu khá sâu rộng tại Ấn độ. Nghiên cứu tại ĐH Tezpur (Ấn độ) năm 2001 ghi nhận các dịch chiết từ rễ khô mimosa pudica có khả năng ức chế các độc tính tác hại của nọc rắn hổ mang Naja kaouthia. Sự ức chế bao gồm các độc hại gây ra cho bắp thịt, cho các enzy mes. Dịch chiết bằng nước có tác dụng mạnh hơn dịch chiết bằng alcohol (Journal of Ethnopharmacology Số 75-2001). Nghiên cứu bổ túc tại ĐH Mysore, Manasa gangotry (Ấn độ) chứng minh được dịch chiết từ rễ cây mắc cỡ ức chế được sự hoạt động của các men hyaluronidase và protease có trong nọc các rắn độc loại Naja naja, Vipera russelii và Echis carinatus (Fitoterapia Số 75-2004).

Hoạt tính chống co giật:

Nghiên cứu tại Departement des Sciences Biologiques, Faculté des Sciences, Université de Ngaoundere (Cameroon) ghi nhận dịch chiết từ lá cây mắc cỡ khi chích qua màng phúc toan (TP) của chuột ở liều 1000 đến 4000mg/kg trọng lượng cơ thể bảo vệ được chuột chống lại sự co giật gây ra bởi pentylentetrazol và strychnin tuy nhiên dịch này lại không có ảnh hưởng đến co giật gây ra bởi picrotoxin, và có thêm tác dụng đối kháng với các phản ứng về tâm thần gây ra bởi N-methyl-D-as partate (Fitoterapia Số 75-2004).

Hoạt tính chống trầm cảm (antidepressant):

Nghiên cứu tại ĐH Veracruz (Mexico) ghi nhận nước chiết từ lá khô mimosa pudica có tác dụng chống trầm cảm khi thử trên chuột. Thử nghiệm cũng dùng clomipramine, desipramine để so sánh và đối chứng với placebo (nước muối 0.9 %). Liều sử dụng cũng được thay đổi (dùng 4 lượng khác nhau từ 2mg, 4mg, 6mg đến 8mg/kg). Chuột được thử bằng test buộc phài bơi. Hoạt tính chống âu lo được so sánh với diazepam, thử bằng test cho chuột chạy qua các đường đi phức tấp (maze). Kết quả ghi được: clomipramine (1.3 mqg/kg, chích TP), desipramine (2.14mg/kgq TP) và Mắc cở (6.0mg/kg và 8.0mg/kg TP) làm giảm phản ứng bất động trong test bắt chuột phải bơi..M. pudica không tác dụng trên test về maze. Các nhà nghiên cứu cho rằng hoạt tính của Mắc cỡ có cơ chế tương tự như nhóm trị trầm cảm loại tricyclic (Phytomedicine Số 6-1999).

Tác dụng trên chu kỳ rụng trứng:

Nghiên cứu tại ĐH Annamalai, Tamilnadu (Ấn độ): Bột rễ mimosa pudica (150mg/kg trọng lượng cơ thể) khi cho uống qua đường bao tử, làm thay đổi chu kỳ oestrous nơi chuột cái Rattus norvegicus. Các tế bào loại có hạch (nucleated và cornified) đều không xuất hiện. Chất nhày chỉ có các leukocytes.. đồng thời số lượng trứng bình thường cũng giảm đi rất nhiều, trong khi đó số lượng trứng bị suy thoái lại gia tăng. (Phytotherapia Research Số 16-2002).

Hoạt tính làm hạ đường trong máu:

Dịch chiết từ lá mắc cỡ bằng ethanol, cho chuột uống, liều 250mg/kg cho thấy có tác dụng làm hạ đường trong máu khá rõ rệt (Fitoterapia Số 73-2002).

Tài liệu sử dụng:

- Medicinal Plants of India (S.K Jain).

- Từ điển Cây thuốc Việt Nam (Võ văn Chi).

- Handbook of Medicinal Herbs (1. Duke).

- The Pharmacology of Chinese Herbs (Kee Chang Huang).

Bài viết trích từ nguồn: Tự Điển Thảo Mộc Dược Học - DS. Trần Việt Hưng



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.