Chuyển đến nội dung chính

NGÒ GAI (Mùi Tàu) - một cây rau ‘thơm’ đặc biệt

NGÒ GAI (Mùi Tàu - Eryngium foetidum, Apiaceae) - một cây rau ‘thơm’ đặc biệt
Có khá nhiều loại rau ‘thơm’ được người Việt gọi dưới tên Ngò. Ngoại trừ những tên chung được nhiều người chấp nhận như Ngò tây, Ngò ta, những tên khác thay đổi tùy từng địa phương: Ngò gai còn được gọi là Mùi gai, mùi tầu.. Ngò om có nơi chỉ gọi là Rau om..

Cùng với nhiều loại rau ‘thơm’ như Rau răm, Húng quế, Húng chanh, Mơ tam thể. Ngò gai cũng theo chân người Việt ty nạn đến Hoa Kỷ và góp phần vào những nét đặc thù của nghệ thuật ăn uống đa dạng trên đất Mỹ, nhất là trong những tô Phở, tô canh chua..

Ngò gai, Eryngium foetidum, thuộc họ thực vật Apiaceae, được gọi tại miền Bắc Việt Nam dưới tên Mùi tàu, mùi gai. Tại Trung Hoa, rau có tên Thích Nguyên tuy (Gi-yan sui), Dương Nguyên tuy (Yang yan sui) và Sơn Nguyên tuy (Shan yan sui). Tại Thái Lan, rau tên là pak chee farang (cây ngò ngoại quốc). Tại Hoa Kỳ, rau có khá nhiều tên, từ tên gốc tại Trung Mỹ như Culantro (đừng nhầm với cilaniro), Siinkweed đến tên tượng hình nhất là Saw leaf herb. Tên tại Pháp: Chardon etoile (star thistle) hay Chardon étoile fetide, tại Đức: Stinkdistel. Tại Mexico, rau có những tên Culantro de burro, Culaniro de coyote.

Ngò gai thuộc loại cây thân thảo mọc thẳng đứng, lưỡng niên. Rể hình thoi; thân có khía, cao 20-40cm, toàn cây có mùi khá hẳng. Lá mọc tại gốc, hình mũi mác thuôn dài, nhẫn, lớn cỡ 10-20cm x 2-3.5cm. Lá không có cuống, mép khía với nhiều rằng cưa có gai. Lá trên thân, càng lên càng nhỏ dần, có nhiều rằng cưa hơn và gai sắc hơn. Hoa mọc thành cụm rễ làm ba, rồi chia thành xim. Hoa không cuống, cánh hoa màu trắng-xanh. Quả nhỏ cỡ 2mm, dẹt.

Ngò gai có nguồn gốc từ Trung Mỹ: Gia đình Eryngium có khoảng 50 loài, gồm đến 187 giống trong đó Ngò gai có mùi có thể gây khó chịu với một số người, nên thường bị xếp vào loại cây dại. Cây chịu được khí hậu lạnh, có thể trồng bằng gieo hạt, thời gian nẩy mầm có thể kéo dài, cây thích hợp với đất ẩm, thoáng không bị úng.

Thành phần hóa học:

1- Thành phần dinh dưỡng:

100 gram lá ngò gai chứa:
- Calories............................. 31
- Chất đạm.......................... 1.24 g
- Chất béo............................ 0.20g

- Các khoáng chất:
+ Caleium........................ 49mg
+ Magnesium.................... 17mg
+ Phosphorus.................... 50mg
+ Potassium
- Các Vitamins: B1 (0.010mg); B2 (0.032mg); B6 (0.047mg);Vitamin C (120mg).

2- Hoạt chất:

Hoạt chất chính trong Ngò gai là những tinh dầu dễ bay hơi (0.02-0.04%) trong đó có các Pyranocoumadins. các monoterpenes glycosides loại cyclohexanol, các aldehyd như 2,4,5-trimethylbenzaldehyde, decanal, furfural. Ngoài ra còn có alpha-pinene, p-cymene; các acid hữu cơ như benzoic acid, capric acid..; các flavonoids.

Nhóm hoạt chất thứ nhì mới được nghiên cứutrong phần trích bằng hexane là nhóm terpenic chứa alpha-cholesterol, brassicasterol, campe sierol, stigmasterol (phần chính, chiếm đến 95%), clerosierol, beta-sito sterol, delia 5-aveasterol..

Trong Rễ. có các Saponins loại triterpene, các esiers của caffeic acid...

Dược tính và Công dụng:

- Ngò gai được dân quê miền Đông Nam Hoa Kỳ trồng gần cửa ra vào vì cho rằng mùi hăng của cây đuổi được rắn.

- Người Việt, Trung Mỹ dùng làm gia vị, tầng hương vị cho càc món ấn như Phở, Canh chua, Sofrito (Mễ). Khác với ngò tây và ngò ta, thường mất mùi khi khô, ngò gai khô vẫn giữ được mùi hăng.

Đông Y cổ truyền:

Theo Đông Y, Ngò gai có vị cay, hơi đẳng; tính ấm, tác dụng vào các kinh mạch thuộc Phế với các tính cách ‘Sơ Phong, thanh Nhiệt, Kiện tỳ, Hành Khí, Tiêu thũng.

- Để trị cảm mạo, đau ngực, ho và trẻ em lên sởi: Dùng 10-15 gram lá ngò gai, sắc trong nước ấm và uống.

- Để trị ăn không tiêu, ăn mất ngon: Uống 15 gram nước sắc lá ngò gai, hoặc ăn lá tươi trộn với dầu mè. Có thể dùng với Cam thảo nam để giúp dễ tiêu.

- Trị sưng đau té ngã: xay 15 gram lá, lấy nước cốt, trộn với rượu trắng và uống. Đắp phần bã trên vết thương.

- Phụ nữ dùng phối hợp với Bồ kết để tạo mùi thơm khi gội đầu. 

Những nghiên cứu mới về Ngò gai:

- Rễ ngò gai có khả nẵng trị các chứng sưng bàng quang, sạn thận và sưng đường tiểu. Cách dùng: Rễ phơi khô, tán thành bột, làm thành trà dược; dùng 1 thìa cà phê bột rễ, trong 30-40 ml nước, đun sôi, uống mỗi ngày 2-3 lần. Tác dụng này được xem là do những ester của caffeic acid như chlorogenic acid trong rễ.

- Tác dụng chống sưng viêm cấp tính và kinh niên: Nghiên cứu tại Khoa Dược Đại học Universidad de Sevilla (Tây Ban Nha) ghi nhận khả năng chống sưng của phần trích bằng hexane từ lá ngò gai trên chuột: tai bị gây sưng phù bằng 12-0-tetradecanoylphorbol acetate (TPA). Tác dụng chống sưng mạnh hơn stigmasterol và tương đối hiệu nghiệm trên các chứng sưng đỏ tại chỗ (Phytotherapy Research Sỗ 13-1999)

Tài liệu sử dụng:

- Duke’s Phytochemical and Ethnobotanical Databases.

- Exotic Herbs (Carol Seville).

- Vegetable as medicine (Chang Cao-liang & Li Bao-zhen).

- Cây thuốc quanh ta (Lê Quý Ngưu & Trần Hữu Đức).

- Medicinal Plants of East and SE Asia (MIT Press).

Bài viết trích từ nguồn: Tự Điển Thảo Mộc Dược Học - DS. Trần Việt Hưng



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.