Còn gọi là cây Mũi mác, Diếp dại (Lactuca indicaL) thuộc họ Cúc (Compositae).
Mô tả: Cây thảo sống 1-2 năm, cao 0,3 -1 m hay hơn. Thân mọc thẳng đứng ít cành nhánh, có nhựa mủ màu trắng hay vàng nhạt. Lá mọc so le, hình mũi mác, xẻ thùy hẹp và sâu, các lá ở phía ngọn ít xẻ hơn. Cụm họa hình ngù to, gồm nhiều hoa hình đầu, cao 5-6 mm, chứa 8-10 hoa màu vàng, toàn là hoa hình môi. Quả bế màu đen, cao 4mm, có 2 cánh; lông mào màu trằng.
Bộ phận dùng: Lá, toàn cây trừ rễ.
Nơi sống và thu hái: Cây mọc hoang ở nhiều nơi. Có nhiều ở An Giang, thường gặp trên những bãi trống ruộng hoang. Cũng thường được trồng; trồng bằng hạt trên đất ẩm, mát, xốp, nhiều phù sa. Có thể thu hoạch lá và phần cây trên mặt đất quanh năm. Dùng tươi hay phơi khô dùng dần.
Hoạt chất và tác dụng: Chưa có tài liệu nghiên cứu thành phần và hoạt chất của cây này. Ở một số loài khác cùng chi như Lactuca virosa, Lactuca sativa (rau Diếp ta, Xà lách) thấy có Lactuxerin và 3 chất đắng là axit lacturic, lactucopicrin và lactuxin. Các loài lactuca không có độc, có tác dụng gây ngủ nhẹ.
Dược điển Việt Ñam in lần thứ nhất, tập II có ghi: Bồ công anh có vị ngọt, hơi đắng, tính hàn, vào 3 kinh can, tỳ, vị. Có tác dụng giải độc, tiêu viêm, thanh nhiệt, tán kết, dùng trị tỳ vị có hỏa uất, sưng vú, tràng nhạc nhọt độc.
Cách dùng: Ngày dùng 20-30g lá tươi (hoặc 5 - 10g lá khô) sắc nước uống. Thường phối hợp với các vị thuốc khác như Kim ngân hoa, Sài đất, Ké đầu ngựa (mỗi vị 20g). Lá có thể dùng tươi giã nát vất lấy nước uống, bã đắp vào chỗ đau trị ung nhọt mới khởi nhóm, thì có thể làm tiêu tan đi. Nếu tràng nhạc hay ung nhọt đã vỡ mủ, khi dùng nên thận trọng. Lá cũng có thể ăn sống hay nấu chín ăn, có tính bổ sức, tiêu thực và tiêu độc.
Trích nguồn: CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG của PTS. Võ Văn Chi
Nhận xét
Đăng nhận xét