Còn gọi là Cóc kèn nước (Derris trifoliata Lour.) thuộc họ Đậu (Fabacege).
Mô tả: Dây leo mọc cao. Lá kép, thường có 5 - 6 (ít khi 7) lá chét xoăn dài 5-10cm, rộng 2-4cm, chóp nhọn, gốc tròn, không lông. Hoa mọc thành chùm đựng ở kẽ lá. Hoa trắng ửng hồng dài 12cm. Đài hoa trăng trắng. Quả tròn 3-4cm, xanh rồi vàng chứa một hạt màu vàng hung. Ra hoa vào tháng 8.
Bộ phận dùng: Dây, lá hạt rễ.
Nơi sống và thu hái: Cây mọc hoang dọc theo các sông rạch, ở các nơi có nước mặn. Thu hái dây, lá, hạt quanh năm. Còn rễ khi dùng thì rửa sạch, thái mỏng, phơi khô, xay thành bột.
Hoạt chất và tác dụng: Chưa thấy tài liệu phân tích các hoạt chất, nhưng ở loài dây mật Darris elliptica (Wall Benth. Người ta đã biết có rotenon, toxicarol... Rotenon có tác dụng điệt sâu bọ.
Theo Y học cổ truyền cây có vị mặn chát thường được dùng chữa sốt rét kinh niên huyết ứ, đàm ngưng sinh ra, thũng trướng trị ho và kiết lỵ. Lá có tác dụng cầm máu, lợi tiểu. Quả chữa đau răng, bạch đới hạ. Rễ có độc, dùng giảm đau, sát trùng vết thương và làm thuốc diệt ruồi, muỗi.
Cách dùng: Thường dùng dây sắc uống. Lá dùng ngoài giã đắp. Viện Y học dân tộc thành phố Hồ Chí Minh đã sản xuất chế phẩm Cóc kèn, cỏ Mực để làm thuốc cầm máu, lành nhanh chóng các vết thương phần mềm và làm thuốc lợi tiểu. Dùng bột mịn lá Cóc kèn (2 phần), cao lỏng cỏ Mực 1/1 (1 phần) với tá dược làm thành viên nén. Chế phẩm này có độc tính thấp, không ảnh hưởng đến tim mạch, huyết áp, hô hấp nhưng lợi tiểu rõ ràng, làm tăng sự bền vững của thành mạch, tăng lượng tiểu cầu, làm giảm thời gian máu đông, rút ngắn thời gian chảy máu. Quả tán thành bột chữa đau răng, sắc uống thì chữa bạch đới hạ. Bột rễ rang nóng ngâm rượu bọc vùng đau nhức của vết thương trầy sứt không chảy máu. Bột rễ trộn với nước cơm dùng diệt ruồi muỗi. Nhân dân thường dùng lá phơi khô đặt trong các chum vại và máng chứa thóc để trừ mọt.
Nhận xét
Đăng nhận xét