Gòn có khi còn gọi là cây Bông gòn (Ceiba pentandrua (L) Gaertn. vạr. indiea (DC.) Bakh.) thuộc họ Gạo (Bombacaceae).
Mô tả: Cây lớn có thân tròn thẳng, cao tới 20 – 30m. Cành nằm ngang. Thân cây lúc còn non có gai hình nón. Các bộ phận non đều có màu xanh. Lá kép chân vịt có 5 - 8 lá chét hình thuôn, gốc và chóp lá đều nhọn.
Hoa hợp thành bông dày ở ngọn cành, màu trắng bẩn. Đài hợp, có 5 thùy, mặt trong có lông nhung. Tràng 5, có lông nhung ở mặt ngoài. Nhị 5, chỉ nhị chẻ đôi. Bầu hình nón, không lông, vòi nhụy nhẵn, đầu nhụy hình đĩa có 5 thùy hình răng. Quả khô, hình bắp thịt mở thành 5 mảnh. Vỏ quả có nhiều lông trắng dài.
Bộ phận dùng: Hạt chưa bóc vỏ, lá và chồi non, quả mon, vỏ và chất gôm.
Nơi sống và thu hái: Cây được trồng ở ven đường đi để làm cây bóng mát. Khắp các tỉnh đồng bằng đều có trồng. Có thể thu hái các bộ phận của cây quanh năm, dùng tươi.
Hoạt chất và tác dụng: Trong hạt có dầu 22 - 25%, protein 22,6 - 31,6%, các ete 15 - 26%, Trong dầu có elein, palmitin, stearin, axit béo rắn, axit béo lỏng, phytosterin, pentozan. Dầu của hạt dùng làm xà bông và để thay thế cho dầu hạt bông. Hạt làm giá, dùng ăn sống hay xào. Lá non là thuốc lợi sữa. Mẫm non với lá và quả của nó là thuốc gây nôn và giải độc rượu. Quả non dùng làm thuốc dịu. Vỏ cây sắc uống chữa bệnh về cơ quan tiết niệu, bệnh về thận, bệnh về tóc, về phổi, đau ngực, ho, lỵ, ỉa chảy, nhất là ỉa chảy thành từng thỏi dài và từng đoạn trông như anbumin. Vỏ cũng gây nôn, kích dục, chữa chứng bất lực, và cũng như vỏ cây Gạo có tính chất giảm đau và hồi phục thần kinh khi bị viêm các loại dây thần kinh. Còn dùng chữa các bệnh về khớp, sốt rét và làm thuốc giải say rượu. Chất gôm từ thân cây tiết ra dùng chữa lỵ, rong huyết, đái tháo.
Cách dùng: Vỏ thường dùng sắc nước uống, với liều 15 - 20g hàng ngày. Lá, mầm, quả non cũng dùng liều như trên. Chất gôm dùng uống mỗi ngày 4 - l0g. Dùng ngoài không kể liều lượng.
Trích nguồn: CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG của PTS. Võ Văn Chi
Xem thêm: Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Bông Gạo
Nhận xét
Đăng nhận xét