Còn gọi là Khương (Zingiber officinale) Rose.) thuộc họ Gừng (Zingiberaceae).
Mô tả: Cây thảo cao tới 1m. Thân rễ mầu vàng, có mùi thơm. Lá mọc so le. Không cuống, hình mắc, có gân giữa hơi trắng nhạt, khi vò có mùi thơm. Cánh hoa dài cỡ 20cm, mang cụm hoa hình bông, gồm nhiều hoa mọc sít nhau. Hoa có cánh màu vàng xanh, mép tím, nhị hoa màu tím. Quả mọng.
Bộ phận dùng: Thân rễ, thường gọi là củ.
Nơi sống và thu hái: Cây được trồng nhiều để lấy củ ăn và làm thuốc. Thường dùng củ tươi hoặc phơi khô. Đào củ già về mùa đông.
Hoạt chất và tác dụng: Trong Gừng có tinh dầu mà thành phần chủ yếu là: anpha-camphen, beta-phelandren, một cacbua là zingiberen, một rượu sesquitecpen ... Ngoài ra còn có chất nhựa dầu, chất béo, tinh bột, và các chất cay như zingeron, zingerola và shogaola. Chưa rõ hết tác dụng được lý.
Gừng là một vị thuốc quen thuộc trong nhân dân ta để giúp cho sự tiêu hóa, dùng trong những trường hợp kém ăn, ăn uống không tiêu, nôn mửa, di ỉa, cảm mạo phong hàn, làm thuốc ra mồ hôi, chữa ho mất tiếng.
Cách dùng: Gừng sống nhấm từng ít một dùng chữa nôn mửa. Có thể sắc Gừng tươi để uống, ngày dùng 3 - 6g. Có thể làm thuốc pha hoặc ngâm rượu Gừng, mỗi ngày dùng 2 - 5ml để chữa ngoại cảm, bụng trướng đầy, nôn mửa, ho.
Dùng Gừng phối hợp với Chanh quả, củ Sả, mỗi loại 10g, thái nhỏ, ngâm với 5g muối và xirô đơn (vừa đủ 100ml) trong 3 ngày rồi dùng vải vắt kiệt lấy nước, đựng trong lọ, đậy kín. Dùng uống trị ho, ngày 2 lần, mỗi lần 1 - 2 thìa canh. Trẻ em dùng 1⁄2 liều người lớn.
Gừng khô sắc uống như Gừng tươi, dùng khi bị lạnh mà đau bụng, đi ỉa lỏng, mệt lả, nôn mửa.
Trích nguồn: CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG của PTS. Võ Văn Chi
Nhận xét
Đăng nhận xét