Me (Tamarindus indica L.) thuộc họ Đậu (Fabaceae).
Mô tả: Cây gỗ to cao đến 20m. Lá kép lông chim chẵn gồm nhiều lá chét (10-12 cặp) có đáy không cân xứng, đầu lõm. Chùm hoa ở ngọn các nhánh nhỏ, có 8-12 hoa. Hoa có 2 lá bắc vàng, dính nhau thành chóp và rụng sớm; 4 đài trắng; 3 cánh hoa vàng có gân đỏ. Quả dài, mọc thõng xuống, hơi dẹt, thẳng, thường chứa 3 - 5 hạt màu nâu sậm trơn; nạc của quả (cơm quả) chua. Mùa quả: tháng 10 – 11.
Bộ phận dùng: Cơm quả, cành lá và vỏ cây.
Nơi sống và thu hái: Cây thường được trồng lấy bóng mát và lấy quả ăn, chế mứt, làm nước giải khát hoặc nấu canh chua. Ta thu hái lá và vỏ cây quanh năm. Quả thu hái vào mùa đông.
Hoạt chất và tác dụng: Cơm quả giàu gluxit (đường, pectin) khoảng 10% axit xitric và tartric tự do và 8% bitartrat axit kali, do đó nó có tính chất nhuận tràng. Cơm quả Me dùng uống khi sốt, chữa các bệnh về gan và tiêu hóa. Gỗ cũng có tính chất như cơm quả. Vỏ là thuốc cầm máu. Hạt là thuốc tẩy giun.
Cách dùng: Cơm quả thường dùng tươi hay làm mứt. Dùng pha nước đường uống nhuận tràng nhẹ, giải khát. Ngày dùng 2-6g. Cũng dùng uống trong trường hợp bị vàng người vì đau gan. Vỏ cây phơi khô, tán bột rắc cầm máu. Dùng sắc uống chữa ỉa chảy, viêm lợi răng. Nước sắc gỗ cây dùng nhuận tràng, thông tiểu nhẹ. Lá nấu nước tắm ghẻ. Hạt dùng tẩy giun (4 - 8g), phối hợp với 6-12g quả cây Giun (Sử quân tử) sao vàng tán bột uống, không phải dùng thuốc tẩy, uống liền trong 3 ngày vào lúc sáng sớm.
Nhận xét
Đăng nhận xét