Còn gọi là cây Thuốc cứu (Artemisia vulgaria L.) thuộc họ Cúc (Asteracede).
Mô tả: Cây thảo, sống dai, cao khoảng 1m, thân có rãnh dọc. Lá mọc so le, xẻ nhiều kiểu, tự xẻ lông chim đến xẻ thùy theo đường gân, mặt trên lá xanh sậm, nhẵn, mặt dưới trắng xanh, có lông. Hoa đầu màu lục nhạt, xếp thành chùm xim. Toàn cây có mùi thơm hắc. Mùa hoa quả: tháng 10 - 12.
Bộ phận dùng: Phần cây trên mặt đất và lá phơi khô.
Nơi sống và thu hái: Cây thường được trồng ở hầu khắp các tỉnh vùng đồng bằng. Người ta thu hái ngọn cây có hoa và lá vào mùa hạ, dùng tươi hay phơi khô để dùng dần. Nếu tán nhỏ, rây lấy phấn lông trắng và bột, gọi là Ngải nhung dùng làm mồi cứu.
Hoạt chất và tác dụng: Sơ bộ thấy trong Ngải cứu có tinh dầu (xineol, anpha-thuyen) và tanin, Tác dụng kích thích, làm cho say, hưng phấn thần kinh.
Theo Y học cổ truyền, Ngải cứu đã phơi hay sấy khô có vị đắng, mùi thơm, tính âm, có tác dụng điều hòa khí huyết, trừ hàn thấp, ôn kinh, an thai, cầm máu. Thường được dùng trị kinh nguyệt không đều, bụng lạnh đau, đi lỵ, thổ huyết, chảy máu cam, băng huyết, lậu huyết, bạch đới ở phụ nữ do tử cung lạnh, các dây thần kinh đau, phong thấp và ghẻ lở.
Cách dùng: Dùng tươi hay phơi khô tán thành bột, hãm hoặc sắc uống. Ngày dùng 6 - 12g. Thường phối hợp với Ích mẫu, cỏ Cú để điều hòa kinh nguyệt.
Phối hợp với Gừng sống trị hàn lỵ ra huyết.
Phối hợp với Hà thủ Ô (liều bằng nhau) phèn phi 10 và ú kẹo mach nha làm hoàn làm thuốc bổ máu, trị sốt rét kinh niên.
Có thể trộn bột Ngải cứu với mạch nha 5/10, mật ong 5/10 làm thuốc bổ máu, Ngải cứu 1 phần và cành Tía tô 1⁄2 sắc hoặc giã uống trị động thai.
Ngải cứu khô ngâm nước cơm rượu nếp hoặc rượu trắng dùng uống hoạt huyết, bể huyết.
Lá Ngải hơ nóng chườm bụng trị đau bụng và gội đầu trị đau đầu. Nước ngải tươi giải nóng, giải nhiệt.
Có thể nấu thành cao dùng riêng hoặc phối hợp với các thuốc khác.
Nhận xét
Đăng nhận xét