Ớt (Copsieum annuum L.) thuộc họ Cà (Solanaceae).
Mô tả: Cây bụi nhỏ, cao 0,5 - 1m, phân cành nhiều. Lá nguyên, mọc đối, hình trái xoan nhọn. Hoa mọc ở nách lá, thường đơn độc, ít khi thành đôi. Đài hợp hình chuông. Tràng hình bánh xe hay hình chuông, chia 5 thùy, màu trắng hay vàng nhạt. Nhị 5, bầu 2-3 ô. Quả mọng, có hình dạng, khối lượng và màu sắc khác nhau: thuôn, mảnh, hẹp, tròn, màu đỏ - vàng, tím, xanh tuỳ thứ. Hạt hình thận, dẹp. Có đến 50 giống khác nhau cũng thuộc một loài cây có tên gọi khác nhau như Ớt sừng trâu, Ớt bị, Ớt cựa gà, Ớt cà...
Bộ phận dùng: Quả (là chủ yếu) và lá.
Nơi sống và thu hái: Cây trồng phổ biến khắp nơi trong nước ta cũng như ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt chất và tác dụng: Trong quả Ớt có các thành phần chính: chất có nitơ (15,50 trong 100g), tinh dầu (1,12), cố định (12,50), các chất không có nịtơ (35), xenluloza (20,35), tro (5,17), capsaicine, capsicine, capsanthine; chất thơm, lexitin, vitamin C (0,05%)... Quả dùng trong có tính chất kích thích dạ dày, kích thích nói chung và lợi tiểu, và dùng ngoài làm thuốc chuyển máu và gây sung huyết. Thường được chỉ dẫn dùng trong chống khó tiêu do mất trương lực, lên men ruột, ỉa chảy, kiết lỵ, nôn mửa không cầm được, xuất huyết tử cung, thấp khớp, thống phong, thủy thũng, viêm thanh quản. Dùng ngoài chữa ho co cứng, một số chứng bại liệt, đau dây thần kinh do khớp, đau lưng, thống phong.
Theo Y học cổ truyển, quả Ớt có vị cay xé, tính rất nóng, có tác dụng dẫn hỏa, ấm bụng, tiêu thực, sát trùng, dùng trị ỉa chảy hoắc loạn, tích trệ, sốt rét. Lá Ớt có vị đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, sát trùng, lợi tiểu, dùng trị sốt, trúng phong bất tỉnh và phù thũng.
Cách dùng: Quả dùng uống trong, với liều thấp (để tránh gây nôn mửa, ỉa chảy, viêm dạ dày và thận). Có thể dùng bột Ớt 0,30g đến 1g trong 1 ngày, dạng viên, hoặc dùng cồn thuốc tươi (một phần ớt, 2 phần cồn 33 độ, hoặc dùng 1 - 4g hằng ngày trong một pôxiô, hoặc dùng nấu ăn. Nếu dùng ngoài, dùng cồn thuốc tươi để bó, hoặc dùng bông mỡ sinh nhiệt trong chứng đau thần kinh do thấp khớp hay ngộ lạnh. Lá giã nát, vắt lấy nước cốt uống trị sốt, trúng phong bất tỉnh và trị rắn cắn (lấy bã đắp ngoài).
Lá sao vàng sắc uống trị phù thũng ngày dùng 20 - 30g.
Nhận xét
Đăng nhận xét