Rau Má (Centella asiatica (L.) Urb.) thuộc họ Hoa tán (Apiaceae).
Mô tả: Cây thảo mọc bò, phân nhánh nhiều trên mặt đất. Rễ mọc ở các mấu của thân. Lá có cuống dài, phiến hình thận hoặc gần tròn, mép khía tai bèo. Cụm hoa hình tán đơn mọc ở kẽ lá gồm 1 - 5 hoa nhỏ không cuống, màu trắng hoặc phớt đỏ. Quả dẹt, có sóng hơi rõ.
Bộ phận dùng: Toàn cây.
Nơi sống và thu hái: Cây mọc hoang khắp nơi, chỗ ẩm mát, có thể thu hái quanh năm. Thường dùng tươi.
Hoạt chất và tác dụng: Trong cây có ancaloit là hydrocotylin và các glycozit là asiaticozit, centellozit... có tác dụng tới mô liên kết giúp cho các mô tái tạo nhanh chóng, do đó làm cho các vết thương mau lành và lên da non. Chất asiaticozit có tác dụng kháng khuẩn (do làm tan màng sáp của vi khuẩn) và làm cho vết thương chóng lên da non.
Theo Y học cổ truyền, cây có vị ngọt nhạt, hơi đắng, mùi thơm, tính mát, có tác dụng giải nhiệt, lợi tiểu, tiêu viêm, sát trùng, cầm máu, dùng trị cảm mạo, phong nhiệt, thủy đậu, sởi, sốt vàng da mặt, viêm họng, viêm hạch nhân, viêm khí quản, ho, viêm đường dẫn tiểu, đái gắt buốt, mụn nhọt, lớ ngứa. Còn dùng trị thổ huyết, chảy máu cam, tả lỵ, khí hư, bạch đới.
Cách dùng: Rau Má dùng ăn sống hoặc ép nước pha đường uống cho mát. Có thể giã lấy nước uống hoặc sắc thuốc làm thuốc giải nhiệt, giải độc, lợi tiểu, cầm máu (nôn ra máu, chảy máu cam...), trị kiết lỵ, táo bón. Ngày dùng 30 - 40g tươi. Dùng ngoài đắp chữa các vết thương do ngã gãy xương, bong gân và làm tan mụn nhọt.
Gần đây người ta còn nghiên cứu tác dụng chữa hủi và lao. Rau Má (300g) và phèn chua (3g) giã nhỏ, hòa nước Dừa, vắt lấy nước uống trị kinh nguyệt không đều, đau lưng, tức ngực, đau bụng máu, khô da, nhức đầu, nóng lạnh, bạch đới. Hàng ngày ăn rau Má trộn dầu giấm hoặc giã nát vắt lấy nước thêm đường vào uống chữa viêm tấy, mẩn ngứa.
Nhận xét
Đăng nhận xét