Còn gọi là Nam sâm, Sâm rừng Sâm quy bầu (Boerhavia repens L.) thuộc họ Hoa phấn (Nyctaginaceae).
Mô tả: Cỏ nằm rồi đứng, sống dai. Rễ mập, hình thoi. Thân mọc tỏa ra sát đất, màu đỏ nhạt. Lá mọc đối có cuống, phiến xoan tròn dài hay hình bánh bò, mép lượn sóng, mặt dưới có nhiều lông màu trắng lục. Cụm hoa chụm mang xin ba hoa không cuống. Các nhánh hoa có nhiều lông trỉn dính vào quần áo. Hoa màu đỏ tía, có 1-2 nhị. Quả hình trụ, phồng ở đầu, có lông dính. Ra hoa kết quả quanh năm, chủ yếu tháng 4 - 6.
Bộ phận dùng: Rễ và lá.
Nơi sống và thu hái: Cây mọc hoang khắp nơi, vườn sân, ở bờ đường, ven suối, vùng đồng bằng. Đào rễ vào mùa thu về rửa sạch, phơi hay sấy khô.
Hoạt chất và tác dụng: Trong rễ có một chất thơm tinh bột chất gôm, một chất dầu bay hơi, kali nitrat. Người ta cũng đã chiết được trong cây một ancaloit có tỉnh thể gọi là punarnavin. Về tác dụng dược lý, cây được nghiên cứu nhiều ở Ấn Độ. Rễ có tác dụng làm tăng lượng nước tiểu, nhưng với liều cao, có thể gây nôn mửa và làm ra nhiều mồ hôi. Nó tác dụng vào hệ thần kinh như một tác nhân chống co giật. Thường được dùng làm thuốc thông tiểu tiện và nhuận tràng dùng trong các bệnh thủy thũng, phù toàn thân, táo bón thường xuyên, các bệnh về gan và lá lách. Dưới dạng bột, nước sắc hay hãm uống, dùng chữa ho, long đờm. Có nơi dùng làm thuốc gây nôn. Lá trị sang độc.
Theo Y học cổ truyền, rễ Sâm đất có tác dụng trừ thấp, hoạt huyết, giải độc.
Cách dùng: Liều dùng hàng ngày 10 - l5g tán bột hoặc sắc uống. Có thể pha uống như pha trà (10g trong 1 lít nước sôi). Nếu pha rượu thì chỉ dùng liều 2 - 5g bột rễ trong 1 ngày.
Trích nguồn: CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG của PTS. Võ Văn Chi
Nhận xét
Đăng nhận xét