Chuyển đến nội dung chính

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - SẦU ĐÂU

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - SẦU ĐÂU

Sầu Đâu hay Xoan đào (Azadirachta indica Juss.f.) thuộc họ Xoan (Meliaceae).

Mô tả: Cây gỗ cao 10 - 15m. Lá mọc so le, dài 20 - 30cm, một lần kép gồm 6 - l5 đôi lá chét mọc đối, nhẵn, hình ngọn giáo với gốc không cân đối, mép có răng tù. Chùy hoa ở nách lá và ngắn hơn lá, gồm nhiều xim nhỏ; hoa thơm màu trắng, cao 5 - 6mm. Đài có lông. Nhị 10, đầu nhụy phình lên với 3 gai và một vòng lông. Quả hạch màu đỏ dài 2cm, có một vỏ cứng dễ vỡ và một nhân hay hạt hóa gỗ, thịt quả khi chín màu đen.

Bộ phận dùng: Vỏ thân, vô rễ, lá, hoa, hạt...

Nơi sống và thu hái: Cây mọc khá phổ biến ở các tỉnh đồng bằng, gặp nhiều ở Hà Tiên, Châu Đốc. Thường được trồng làm cây bóng mát. Gỗ ít bị sâu bệnh vì rất đắng. Lá làm gỏi ăn mát, bổ. Quả cũng ăn được. Vào tháng 2 - 3, có lá non và hoa.

Hoạt chất và tác dụng: Tất cả các bộ phận của cây chứa một chất nhựa rất đắng là azadarin hay margosin. Trong hạt có một hoạt chất là mimbidin; hạt chín vừa màu vàng nhạt chứa 24%, một chất dầu màu đen đen gồm chủ yếu là các glyxerit và chỉ có 2% là chất đắng. Dầu hạt được dùng trị giun, trị vết thương và trị bệnh ngoài da, ghẻ. Lá dùng làm tan sưng khi bị đụng giập và bong gân, dùng xoa kích thích, trị đau các cơ, cũng dùng trị bệnh mụn nhọt và trừ sâu mọt. Hoa cũng như lá có tính chất kích thích bổ, lợi tiểu, lọc máu. Võ rễ làm se, bổ và hạ nhiệt, cũng dùng trị sốt rét nhưng hiệu quả không cao. Vỏ thân (phần trong màu vàng) dùng trị sốt rét cơn, sốt rét vàng da và làm thuốc lọc máu. Vỏ thân (hoặc lá, hoa, thân non) nấu đặc rửa các vết thương, vết loét.

Cách dùng: Để trị sốt rét cơn, dùng vỏ thân giã giập 10g và 100cc nước đun còn 1⁄2. Dùng liều 30 - 60g đối với người lớn, 10 - 20g đối với trẻ em. Bột vỏ dùng với liều 0,30 - 0,60g. Tiện lợi hơn là dùng cồn thuốc: 200g vỏ, 500cc rượu 90°, ngâm trong 8 ngày rồi cho thêm nước cất nhiều gấp đôi vào; hàng ngày dùng 1 - 2 thìa cà phê, trẻ em 1 thìa, liện tục trong 1 tuần làm thuốc lọc máu. 

Lá dùng dưới dạng cồn thuốc hay dầu thuốc. Để dùng xoa bóp, lấy 100g lá tươi giã giập cho vào 1000g cồn công nghiệp, hoặc 500g cồn 90° ngâm trong 10 ngày. Loại thứ 2, nếu cho thêm nước vào, có thể dùng uống khai vị, mỗi lần 1⁄2 thìa con. Để xoa bóp đau nhức, bệnh ngoài da, dùng 100g lá ngâm vào 100 cồn 90° trong 24 giờ, rồi thêm 1000g dầu Dừa, chưng cách thủy trong 3 giờ, ta được dầu màu xanh lục.

Trích nguồn: CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG của PTS. Võ Văn Chi



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.