Còn gọi là Mò cua, Mùa cua (Alstonia scholaris (L.) G. Br. thuộc họ Trúc đào (Apocynoceae).
Mô tả: Cây to cao 10 - 25m, vỏ nứt nẻ, màu xám. Cành mọc vòng. Lá mọc vòng 5 - 8 cái, tập trung ở đầu cành; phiến lá dày, hình bầu dục dài. Hoa nhỏ, màu trắng lục, mọc thành xim tán ở kẽ lá, mùi thơm hắc, nhất là về đêm. Quả gồm 2 đại dài và hẹp, chứa nhiều hạt. Hạt có mào lông ở hai đầu. Toàn cây có nhựa mủ màu trắng như sữa. Mùa hoa quả: tháng 7 - 12.
Bộ phận dùng: Vỏ cây.
Nơi sống và thu hái: Cây mọc hoang và cũng được trồng ở nhiều nơi thuộc các tỉnh Đồng Tháp, Bến Tre, Hậu Giang, An Giang, Kiên Giang. Ta thường thu hái vỏ vào mùa xuân, hạ đem phơi khô hay tán bột để dùng.
Hoạt chất và tác dụng: Trong vỏ cây có ditain và echitanin, echitamin (ditamin) và echitamidin. Chúng có tác dụng gần giống như chất quinin dùng trị các chứng ăn uống không tiêu, sốt nóng, đau nhức xương.
Theo Y học cổ truyền, cây có vị đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, trừ đờm, tiêu tích, thông kinh. Thường dùng làm thuốc bổ, chữa thiếu máu, kinh nguyệt không đều, sốt rét cấp và mãn tính, đau bụng ỉa chảy, kiết lỵ, đau viêm khớp có sưng nóng đỏ đau, bệnh ngoài da lở ngứa.
Cách dùng: Thường dùng dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột, rượu thuốc hay cao lỏng. Vỏ tán bột (ngày dùng khoảng 1g) hoặc sắc hay nấu cao lỏng pha rượu (rượu bổ Ditakina). Ngâm 20g dược liệu trong 100ml rượu 40° trong 15 ngày rồi lọc uống làm thuốc bổ, kích thích tiêu hóa, ăn ngon miệng, chữa suy nhược, dày da bụng, bổ tỳ vị. Vỏ cây sắc đặc dùng ngậm chữa sâu răng.
Trích nguồn: CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG của PTS. Võ Văn Chi
Xem thêm: THUỐC BỔ, THUỐC BỒI DƯỠNG - Cây Sữa
Nhận xét
Đăng nhận xét