Chuyển đến nội dung chính

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG
18 Bài thuốc

Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa.

Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới.

Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan.

Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ.

Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.

Một điều đáng chú ý là lúc đó ở chiến khu Ð, ở trong bộ đội cũng như ở cơ quan cũng chỉ có gạo và chất bột là chính, cho nên dạ dày lại cần thủy phân bột hơn nữa.

Khi dạ dày tiết acide ra nhiều để thủy phân thức ăn thì dạ dày phải chịu ảnh hưởng trước hết là bỏng, rồi dần dần bỏng nhiều và đi đến loét v.v...

Khi tôi điều tra biết được nguyên nhân của bệnh dạ dày thì điểm thứ nhất là tôi phải tìm một chất men thay thế cho chất men trong nước bọt (Ptyaline) để cho người ăn nhanh quá uống vào thì dạ dày khỏi phải tiết acide nhiều.

Ở chiến khu Ð không có nguyên liệu nhiều mà chỉ có lúa là chính, vả chăng khi làm mạch nha ta cũng dùng mộng lúa để thủy phân nếp cho nên mộng lúa có chứa chất men nhiều.

Làm mộng lúa thì chúng tôi không để mộng lúa non quá vì non quá thì ít men. Cũng không để cho mộng lúa già quá vì già quá thì mất men.

Khi mộng lúa vừa được, chúng tôi tách mộng lúa ra khỏi lúa rồi đem phơi hai thứ ra nắng, chứ không sấy vì sợ sấy cao độ thì men sẽ chết.

Khi mộng lúa và lúa khô thì chúng tôi để riêng mộng lúa và lấy lúa làm cho sạch vỏ đi, vì trong lúa đó cũng có một ít chất men.

Khi đã làm lúa xong thì chúng tôi tán nhỏ mộng lúa và lúa làm một. Đó là men để dùng cho người bệnh. Mỗi lần uống thì chúng tôi cho 1 thìa con men vào giữa bữa ăn.

Tất cả bệnh nhân của chúng tôi đều thấy bệnh giảm nhiều và lành. Điển hình là trường hợp đồng chí Phan Đình C, Chính trị viên phó Tỉnh đội Thủ Biên bị đau dạ dày đã lâu. Bác sĩ cho là anh bị ung thư dạ dày (lúc đó không có phương tiện kiểm tra và bệnh của anh cũng đã quá nặng). Mỗi lần anh đau phải tiêm Histidine mới đỡ và khi ăn anh phải ăn cháo nếp chứ không ăn cơm nếp được (ở đây chúng tôi xin nói rõ: đau dạ dày ăn cơm nếp, không phải vì cơm nếp có chất nhờn mà vì bột nếp dễ thủy phân hơn bột gạo, cho nên bột nếp ít đòi hỏi acide hơn bột gạo: như ta nấu rượu thì ta phải nấu bằng nếp, còn công ty của Pháp nấu rượu thì dùng gạo, vì trước khi cho men vào gạo, họ đã thủy phân một phần gạo bằng acide. Mấy ông uống rượu có kinh nghiệm cho là rượu công ty Pháp nấu độc hơn rượu mình nấu, chỉ vì rượu của Pháp có acide.

Anh Phan Đình C, đến xin chúng tôi bột mộng, chúng tôi đưa cho anh một số lượng đủ uống trong 1 tháng, anh về uống thì bớt đau và ăn cơm tẻ được. Sau 1 tháng anh báo cáo là không cần bột mộng, anh vẫn ăn cơm được mà không thấy đau. Tôi bảo anh là 1 tháng rưỡi nữa thì anh sẽ đau trở lại, nếu anh không tiếp tục uống bột mộng. Quả thật, 1 tháng rưỡi sau anh trở lại báo cáo với chúng tôi là bệnh anh bắt đầu đau lại và xin bột mộng để uống.

Vì mộng lúa giải quyết cho dạ dày của anh khỏi tiết acide nhiều, dạ dày khởi sự lành, nhưng khi anh không uống bột mộng nữa và chưa bỏ được tật ăn nhanh thì dạ dày của anh tiết nhiều acide trở lại, làm cho bệnh anh tái phát.

Lần này chúng tôi đưa bột mộng cho anh và dặn anh cố gắng ăn cho thật chậm thì sau khi hết số lượng bột mộng này bệnh sẽ không tái phát, khỏi phải uống bột mộng nữa.

Quả thật sau 3 tháng gặp lại anh thì bệnh anh khỏi hẳn, từ đó anh ăn chậm nhai kỹ và anh có làm bữa tiệc liên hoan với chúng tôi, mừng khỏi bệnh.

Ở chiến khu Ð, có mở 1 lớp trường Đảng, học viên trên 100 người mà gần 30 người đau dạ dày. Lúc đó là mùa bắp (ngô) cho nên nhà trường không ăn gạo mà chỉ ăn bắp trong thời gian học. Sau khi khóa học bế giảng thì số người đau dạ dày cũng vừa hết bệnh, không phải uống thuốc gì cả, sở đĩ hết bệnh là vì ăn bắp phải nhai cho kỹ nên bệnh nhân có đủ nước bọt để thủy phân mà dạ dày khỏi tiết acide nhiều, cho nên dạ dày bệnh nhân lân lần hết bỏng và lành.

Thật ra, dạ dày là chỗ để thủy phân các thức ăn thì cơ thể mới tiếp thu được, muốn thủy phân thì phải có men hoặc acide. Men thì chỉ có trong nước bọt, nếu ăn nhanh thì nước bọt không đủ thì giờ để thấm vào thức ăn xuống đạ dày, thức ăn vì không có men để thủy phân nên buộc lòng dạ dày phải tiết acide ra nhiều để thủy phân số thức ăn đó. Do đó mà bệnh dạ dày xuất hiện: “Bệnh dạ dày nào cũng xuất phát từ một sự thừa acide”.

Thừa men thì ít tốn acide, thiếu men thì phải có nhiều acide mới thủy phân được, đó là quy luật.

Cho nên mắc bệnh dạ dày là vì:

1. Răng hỏng, nhai không kỹ

2. Ăn nhanh

Những điều kiện này làm cho thức ăn không thấm được nước bọt, buộc dạ dày phải tiết acide nhiều, vì thế mà đau dạ dày, chứ không có lý do nào khác.

Bộ Y tế cũng nên đề ra trong vệ sinh ăn uống, biện pháp ăn chậm nhai kỹ là cần thiết. Nếu mọi người đều áp dụng phương pháp đó và bỏ thói xấu “nam thực như hổ” thì chúng tôi chắc rằng y tế của chúng ta khỏi phải lo chữa một thứ bệnh mà chúng ta có thể tránh được.

1. Sa dạ dày
- Các tuần đầu: Mỗi tuần 2 cái mề gà để nguyên, thái mỏng + mạch nha (đường mạch nha).
- Các tuần sau: Mỗi tuần 1 cái

2. Hẹ
- Hẹ là một loại cây cỏ, cao 20 - 40 em, thân hẹ nhỏ, lá dài dẹt, hẹp ngang. Hoa nhỏ màu trắng, mọc trên một cán dài thành tán giả. Cánh hoa hình tam giác dẹt. Quả khô, hạt nhỏ, màu đen. Toàn cây có mùi đặc biệt. Mùa hoa vào tháng 7-9, mùa quả vào tháng 10 - 12.
- Hẹ được trồng ở khắp nơi, nhất là những vùng nông thôn để làm gia vị và làm thuốc. Trồng bằng hạt hoặc bằng thân vào vụ đông xuân.
- Người ta đã nghiên cứu thấy trong lá và thân hành hẹ có chất sunfua, saponin, chất đắng và một hoạt chất đặt tên là ôđôrin. Hoạt chất này ít độc, có tác dụng kháng sinh. Phòng Đông y Thực nghiệm Viện Vệ sinh dịch tễ học đã nghiên cứu tác dụng của lá hẹ với các loại vi khuẩn cho biết nước ép lá hẹ tươi có tính chất kháng sinh rất mạnh đối với nhiều loại vi khuẩn như những vi khuẩn sinh mủ staphylocoque, những trực khuẩn gây bệnh đường ruột ly và tiêu chảy như Salmonella, Shigella và Subtilis. Tính chất kháng sinh khá vững bền, nhưng sẽ mất hết tác dụng khi đun sôi hoặc sắc.
- Hẹ là một vị thuốc được dùng từ lâu đời trong y học dân gian. Tính chất của hẹ theo tài liệu cổ có vị cay, hơi chua, mùi hăng, tính bình.
- Lá và thân hành hẹ có tác dụng chữa ho trẻ em khá công hiệu. Có thể dùng riêng hoặc phối hợp với nhiều vị thuốc khác theo một trong những công thức sau:
* Bài 1
- Lá hẹ 15g
- Hoa đu đủ đực 15g
- Hạt chanh 20 hạt
Tất cả dùng tươi, cho vào bát sạch giã nát, thêm đường và 10ml nước. Đem hấp chín. Để nguội cho trẻ uống làm 3 lần trong ngày.
Dùng liền 3 - 4 ngày.
* Bài 2
- Lá hẹ 15g
- Lá dâu tằm non 10g
Giã nát, hấp cho uống 3 lần trong ngày
Lá và thân hành hẹ nấu nước uống còn chữa được bệnh giun kim, mồ hôi trộm. Ngoài ra, người ta còn dùng hạt hẹ sắc uống mỗi ngày 6 - 12g để chữa di mộng tinh, tiểu tiện nhiều đau lưng, mỏi gối.

3. Cắt cơn đau dạ dày
Cơn đau dạ dày do loét hành tá tràng, loét môn vị, loét bờ cong nhỏ dạ dày, viêm dạ dày v.v... thường đau kéo dài, thuốc cắt cơn đau dạ đày trên có nhiều loại. Chúng tôi giới thiệu một số bài thuốc có tác dụng cắt cơn đau dạ dày để các bạn mắc bệnh có thể tự làm.
- Củ gấu 500g
- Vỏ quit 250g
- Lá Khổ sâm 200g
- Lá củ cây độc lực 1000g
Tất cả các vị sao giòn, tán bột chia đều dùng trong 10 ngày, mỗi ngày uống 2 lần trước cơn.

4. Cắt cơn đau dạ dày
- Lá khôi 20g
- Khổ sâm 5g
- Bồ công anh 20g
- Nhân trần 10g
- Chút chít 10g
Ngày uống 1 thang.

5. Cắt cơn đau dạ dày
- Bột lá khôi 150g
- Đường kính 50g
- Bột gạo nếp rang 100g
Tất cả trộn đều, uống trong 15 ngày, mỗi ngày uống 2 lần.

6. Cắt cơn đau dạ dày
- Độc lực 40g
- Khiên ngưu 10g
- Bồ công anh 20g
- Bưởi bung 20g
- Ô dược 10g
- Nhân trần 10g
- Trần bì 10g
- Vọng cách 30g
- Nam mộc hương 20g
- Khổ sâm 10g
Đun hai nước. Nước đầu đổ 6 bát nước, đun còn 3 bát rồi chắt ra, nước thứ hai đổ 4 bát nước, sắc còn 2 bát. Đổ dồn hai nước đun sôi, uống hằng ngày thay nước uống.

7. Loét dạ dày
- Gạo tẻ (tẩm nước, rang vàng) 5 đc
- Ô tặc cốt (nướng vàng) 2 đc
- Mẫu lệ (nung lửa than đá 2 giờ) 3 đc
- Tiểu hồi hương (tẩm giấm sao thơm) 2 đc
- Hương phụ tử chế 3 đc
- Chích thảo nướng 2 đc
- Bạch cập 2 đc
Tán bột uống mỗi lần 1 gói 8g, ngày 2 lần trước bữa ăn.
Nếu đau, bỏ Bạch cập.

8. Bài thuốc chữa đau dạ dày
- Lá dung (hoa trắng)
- Lá dạ cẩm
- Cỏ xước
- Lá thủ ô trắng

9. Viêm dạ dày
* Bài 1
Đau bụng ợ chua, ợ ra hơi nóng, đau thượng vị, lan ra cạnh sườn, khát nước, đại tiện táo bón, mùa nắng đau nhiều, mạch sác.
- Rau má 100g
- Bột cát căn 100g
- Rau muống 100g
- Cỏ hàn the 100g
- Lá mơ 200g
- Cỏ nhọ nồi 100g
Sắc uống
* Bài 2
Đau bụng, đầy bụng, ợ không chua không hăng, đêm đau nhiều, trung tiện được thì đỡ, đại tiện lỏng, nhão, sống phân.
- Hương phụ 100g
- Vỏ bưởi đào 100g
- Củ gừng gió (Cao lương khương) 100g
Sao vàng tán nhỏ rây kỹ
Uống mỗi lần 8g x 2 lần/ngày.

10. Loét dạ dày thể thực nhiệt (mạch phù huyền sác, hữu lực)
- Lá khôi
- Bồ công anh
- Khổ sâm
- Trần bì (cho hết đầy bụng)
- Cao ngải cứu để bổ máu
- Vỏ bưởi sao
* Nếu táo bón, thêm:
- Vừng đen
- Lá dâu
- Thổ phục linh
- Rau má (nhuận gan)

11. Loét dạ dày thể hàn nhiệt phức tạp
Loét mồm, loét đạ dày
Lấy cây loét mồm sắc ngậm uống rồi hết luôn đau đạ dày
- Cây Loét mồm (đồ chín) một ít
- Trần bì 5g
- Vỏ bưởi đào 5g
- Bồ công anh Bắc 5g

12. Loét dạ dày thể hư hàn
- Lưu hoàng (treo trong nồi không đụng đáy)
- Trứng gà
- Lưu hoàng chế 1 kg
- Ngô tẻ sao vàng 1 kg
- Ngô nếp sao cho nổi 1 kg
- Đậu đen sấy hoặc phơi nắng 7 hôm
* Nếu nôn uống:
- Trần bì
- Vỏ bưởi đào
- Mạch nha sao cháy
- Ngải cứu

13. Thuốc dạ dày
- Thạch tín (tiêu độc)
- Bồ kết (tiêu tất cả)
* Công thức:
- Thạch tín 1 lạng, chế rồi còn bao nhiêu cũng được.
- Phèn phi 3 cân sống, phi còn bao nhiêu cũng được.
- Bồ kết 2 lạng (bỏ hột)
- Thạch đại 4 lạng
- Lá ngung nửa cân
- Mộc hương 2 lạng
Thạch tín: nhồi kỹ đất thô với giấy bản gói, để khô không nứt rồi nung cho đỏ.
Mỗi gói 2 viên hạt đậu xanh bằng 7 phân ta (30 viên) một lạng rưỡi là 600 viên) uống lúc sáng hoặc chiều không được nhai, uống với nước vôi loãng hoặc nước đun sôi để nguội, không uống với nước chè (kỵ nước chè) uống xong 15 phút ăn cơm.
Kiêng: Rượu, giấm, ớt, tiêu, thịt chó, thịt gà, cá chép, thịt quay, cá rán, phòng dục.
Mỗi ngày một gói, không được hơn
Đau nhẹ uống 3 gói thì khỏi
Có thí nghiệm tăng 2 lạng, hơi phù nhưng không sao
Không phân biệt hàn nhiệt
Thạch tín lấy thứ đỏ thì tốt.

14. Loét dạ dày
- Tam thất 120g
- Mật 40g
- Nghệ 500g
- Sâm 40g

15. Thuốc đau dạ dày
* Thể hư nhiệt:
- Lá khôi 50g
- Bồ công anh 20g
- Ngải cứu 12g
- Vỏ bưởi đào 12g
- Trần bì 12g
- Khổ sâm 12g
- Cam thảo đất 12g
Tán bột
* Thể hư hàn:
- Bột nước nghệ 30g
- Bột hạt tiêu 20g
- Mật bò 1000g (mật bò khô 100g)

16. Thuốc chữa dạ dày kinh niên
- Trần bì 1 đc
- Chỉ thực 1 đc
- Bán hạ 1 đc
- Mạch nha 1 đc
- Phục linh 1 đc
- Hoàng cầm 3 đc
- Thần khúc 1 đc
- Hồ hoàng liên 1 đc
- Sơn tra 1 đc
- Bạch thược 1 đc
- Liên kiểu 1 đc
- Huyền hồ 1 đc
- Hương phụ 1 đc
- Mẫu lệ 1 đc
- Hậu phác 1 đc
- Đại hoàng 1 đc
- Thanh bì 1 đc
- Hồ ma nhân 1 đc
- Cát cánh 1 đc
- La bạc tử sao 1 đc

17. Thuốc dạ dày
- Xuyên khung 2 cs
- Đại hoàng 3 đc
- Thương truật 4 cs
- Ô dược 1 lạng
- Ngô thù du 3 đc
- Mộc hương 4 đc
- Chi tử 4 đc
- Hoàng liên 3 đc
- Chỉ xác 3 đc
- Hương phụ 200g
- Nhục quế 3 đc
- Thần khúc 3 chỉ
- Hậu phác 3 dc

18. Viêm loét dạ dày
- Mai mực 400g
- Lá cà độc dược 30g
- Cam thảo 100g
- Sơn tam nại 200g
- Nhũ hương 100g
- Thổ bối mẫu 200g
- Nghệ 100g
- Nước cất 600
Làm viên 0,50g.

Trích từ sách: TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN 
của Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng 
do NXB Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh ấn hành


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.