Chuyển đến nội dung chính

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA THỔ TẢ (Hoắc loạn)

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA THỔ TẢ (Hoắc loạn)

CHỮA THỔ TẢ (Hoắc loạn)
57 Bài thuốc

Hoắc loạn là chứng cấp bách rối loạn, vì ngoại cảm phong hàn nội thương ẩm thực đói no không chừng, nên sinh ra, phát bệnh thì trong bụng quặn đau, nóng lắm mà sợ lạnh, đau đầu chóng mặt hoặc tả mà không thổ hoặc thổ mà không tả, hễ đau bụng trên trước thì thổ trước, đau bụng dưới trước thì tả trước, bụng trên dưới đều đau thì cả thổ và tả. Hễ có thổ tả thì gọi là “thấp hoắc loạn” dễ trị, không thổ tả thì gọi là “can hoắc loạn” khó trị thậm chí tay chân giá lạnh chuột rút, bệnh này gấp rút ghê sợ, như sấm sét mưa gió dễ động dễ lặng, phải chữa cho gấp, chớ để chậm.

1. Vọp bẻ, thổ tả
40 trái ré + 1 chén muối
Lấy ra 1 trái trộn với nước cốt gừng và nước sôi 15 phút rồi cho uống.
Trị dịch tả, phong cảm lạnh, đau bụng trúng thực.
Lá trâm bầu + muối, nhai nuốt.

2. Thổ tả
Rau cần, Hoắc hương, Trần bì lâu năm, Gừng, Trà tàu, sắc đặc uống 2 muỗng.

3. Thổ tả
Phòng phong, Hậu phác, Tế tân
Chỉ xác, Sài hồ, Ngô thù
Phục linh, Trần bì, Quế hương
Can khương, Trạch tả, Thương truật
Ma hoàng, Xương bồ, Đậu khấu
Thăng ma, Cửu bổn sắc uống.

4. Thổ tả
Đậu khấu 2 chỉ tán nhỏ, ngâm rượu.

5. Thổ tả
Sa sâm, Bạch truật, Gừng
Phục linh, Cam thảo, Sa nhân
Mộc hương, Bán hạ, Hoài sơn
Ô mai, Trạch tả, Quế khâu, Trần bì
Hương phụ, Hậu phác, Thương truật,
Hoắc hương, Thần khúc, Chỉ xác, Bạch thược
Biển đậu, Đinh hương, Bạch bì
Phụ tử, Thục địa, Tiêu sọ
Mộc qua, Đậu khấu, đường cát
Ngâm rượu uống hai ly nhỏ.

6. Thổ tả
- Trà tàu 60g
- Quế khâu 60g
- Riềng 50g
- Can khương 50 g
- Tiêu sọ 50g
- Trái ré 50g
- Sa nhân 50g
- Trần bì 50g
- Rượu 2 lít
- Đường cát 200g

7. Thuốc dịch tả gia truyền của Ông Nguyễn Thành Vang
(Bài thuốc đã nghiên cứu - Viện Nghiên cứu Đông y)
- Đường cát trắng 320g
- Đinh hương 160g
- Trà tàu 40g
- Tiểu hồi hương sao 160g
- Tiêu sọ 40g
- Đại hồi hương sao 120g
- Quan quế 240g
- Cao lương khương 160g
- Cà phê 120g
Người lớn: 1 muỗng cà phê pha với nước trà đường, 4 - 5 lần/ngày.
Trẻ em: không dùng cho trẻ em dưới 3 tuổi, trên 3 tuổi dùng 1/3 phần người lớn.

8. Chữa dịch tả
(Bài thuốc đã nghiên cứu - Viện Nghiên cứu Đông y)
- Vỏ rụt 160g
- Củ gấu 120g
- Thảo quả 60g
- Hoàng nàn chế 34g
Hoàng nàn ngâm nước vo gạo 3 ngày, Mỗi ngày thay nước 1 lần, cạo sạch vỏ mốc, sao kỹ riêng từng vị, tán bột mịn, rây kỹ, dập viên 0,1g hoặc 0,2g.
Chữa nôn mửa tiêu chảy hàng loạt do dịch tả.
Người lớn mỗi lần uống 1 g với nước chín, ngày từ 2 đến 4 lần.
Trẻ em trên 10 tuổi uống 1/2 liều người lớn

9. Chữa dịch tả
- Hột tiêu sọ 100g
- Lưu huỳnh chế kỹ 50g
Cùng tán bột mịn.
Người lớn uống mỗi lần 2 - 4g với rượu nhạt ngày 2 - 4 lần.
Trẻ em tùy tuổi.

10. Chữa dịch tả
Thượng thổ hạ tả
1. Quế, Sa nhân, Sinh khương, Trần bì, Hoắc hương, mỗi vị 40g (bệnh nhẹ 20g là vừa)
Sắc lấy nước cho uống từng muỗng, cách 15 phút.
2. Gừng già (sao) Ngô thù du, Định hương, Quế khâu, Tiêu sọ (giã nát) 5 vị đồng cân lượng
Ngâm 2/3 lít rượu ngon, sau 24 giờ dùng được
- Thấy đau bụng và có triệu chứng dịch tả uống ngay 1 ly nhỏ là thấy hiệu quả
- Bệnh nặng biết uống rượu có thể uống hơn 1 ly nhỏ.

11. Chữa dịch tả
Rượu hồ tiêu
- Hồ tiêu trắng 40g
- Rượu trắng 1 lít
Ngâm 3 tháng dùng 10 - 15ml
1 muỗng canh pha với nước, sau 1 giờ chưa bớt uống thêm 1 muỗng thứ nhì, sau 1 giờ nữa chưa bớt uống thêm 1 muỗng thứ 3.

12. Thổ tả - hoắc loạn
(Bài thuốc đã nghiên cứu - Viện Nghiên cứu Đông y)
- Hoắc hương 40g
- Hậu phác 20g
- Trần bì 20g
- Vỏ rụt 30g
- Phèn phi 5g
Hậu phác, Vỏ rụt sắc nước cô đặc, ngào bột Hoắc hương, Trần bì, phèn phi làm viên 0,2g
Chữa đau bụng, hoắc loạn nôn mửa tả chảy.
Người lớn mỗi lần uống 4 - 8g, ngày uống 2 - 3 lần.
Người già, trẻ em giảm bớt tùy tuổi.

13. Chữa dịch tả
Thiên thời dịch tả mạng vong
Vọp bẻ, dịch tả chết trong bất ngờ
40 trái ré để hờ
Cất trong hủ muối ta lo cứu đời
Chỉ một chén muối mà thôi
Khi mắc phải bệnh ta thời đem ra
Một trái nắm ngọn tay ta
Xối cho chút nước gọi là rửa sơ
Đoạn rồi sẵn nước gừng hờ
Nước sôi để sẵn úp vô chén này
15 phút sau đủ hay
Cho người bịnh uống mạng này cứu xong
Nếu mà mắc phải chứng phong
Tay chân lạnh ngắt cũng dùng phép ni
Hoặc là đau bụng li bì
Thuốc tiên là đấy không chi sánh bằng
Hoặc là trúng thực nhào lăn
Cũng dùng phương ấy cứu trăm mạng người.

14. Chữa dịch tả
Trâm bầu nắm giọt tay tôi
Đem nhai với muối nuốt trôi vào lòng
Ỉa mửa bụng quặn lòng đau
Nếu không kịp cứu ắt vong mạng nầy
Hoặc khi cứu cấp biết ai
Ta lo biết trước có ngay phò nguy.

15. Chữa dịch tả
Rau cần, Hoắc hương không chi
Cân thì vài lá, Trân bì, lâu năm
Gừng thì một củ gọi rằng
Ba thứ đâm nhuyễn đặt trong ta dùng
Trần bì, trà thiệt hơ chung
5 cái cả thảy rắc cùng 1 khi
Sắc cho keo đặc đúng thì
Uống lần 2 muỗng cách chi bịnh hành.

16. Chữa dịch tả
Phòng phong Hậu phác để đành
Tế tân, Chỉ xác làm thành thang danh
Sài hồ, Ngô thù cũng cần
Linh, kỳ, Quan quế, mấy lần Lương khương
Bạch chỉ, Phụ tử, Hoắc hương
Xuyên khung, Trạch tả, Can khương, Ma hoàng
Xương bồ, Đậu khấu dễ dàng
Thăng ma, Cửu bổn, nó hằng đi chung.

17. Chữa dịch tả
Thiên thời tìm thuốc khắp cùng
Còn Nhục đậu khấu thử dùng làm cao
Hai chỉ bỏ vỏ để dành
Tán nhỏ quậy rượu uống lành bịnh thôi.

18. Chữa dịch tả
Sa sâm, Bạch truật, Gừng khô
Phục linh, Cam thảo, theo mùi Sa nhân
Mộc hương, Bán hạ, Hoài sơn
Ô mai, Trạch tả, lại còn Quế khâu
Hương phụ, đường cát thảy tinh lựa bài
Hậu phác, Thương truật còn cần Hoắc hương
Thần khúc, Chỉ xác khoan trường
Bạch thược, Biển đậu, Đinh hương, Bạch bì
Phụ tử, Thục địa tương tri
Tiêu sọ một nhúm cũng vì Trư linh
Mộc qua, Đậu khấu chớ khinh
Trần bì, Hương phụ cũng màu
Tán khô ngâm rượu cho hay
Mỗi lần mắc bệnh uống vài ly con.

19. Chữa các chứng hoắc loạn, bụng đây trướng, không thổ, không tả, buồn bực rối loạn muốn chết
- Binh lang 5 đồng cân tán bột, nước trong 1 chén, đồng tiện nửa chén sắc uống.

20. Hoắc loạn, mửa đi cầu không được, đờm tắc, bụng trướng
- Muối ăn 1 lạng, gừng 5 đồng cân sao vàng, đồng tiện 4 chén, sắc còn 1 chén chia 2 phần uống nóng.

21. Hoắc loạn thổ tả đã nguy
- Hoắc hương, Trần bì sắc nước uống, nếu có phiền khát thì thêm Cát căn, Cam thảo
Hoặc Bạch giới tử nghiền nhỏ đặt vào rốn, yên ngay.

22. Hoắc loạn phiền khát
- Nước ngó sen 1 chén, nước gừng sống 1/2 chén hòa uống.

23. Hoắc loạn chuyển gân vào bụng muốn chết
- Bột Tạo giác thổi vào lỗ mũi cho hắt hơi (nhảy mũi), Gừng sống 3 lạng giã nhỏ, nấu với rượu 1 cân, uống, bã gừng đắp vào chỗ đau, lại lấy củ tỏi to giã nhuyễn rịt vào lòng 2 bàn chân.

24. Chuyển gân bụng trướng thổ tả chưa yên
- Chi tử 2 quả đốt nghiền, hòa với rượu nóng uống.

25. Hoắc loạn
- Cây cỏ gà 1 nắm tay, gạo trắng 1/2 vốc tay, tí muối ăn, cùng giã nát hòa với nước cho đều, bỏ bã, hoặc uống mửa được hay không mửa được cũng khỏi, nếu cần gia thêm lá Tía tô.

26. Hoắc loạn thổ tả
- Phù lão diệp (lá trầu không), Bạch địa dương diệp (lá bồ cu vẽ) vỏ hoa điệp (lá sung) 3 thứ giã nhỏ, 1 bát nước tí muối, sắc uống hoặc phơi khô, tán viên với hồ, to bằng viên đạn, mỗi lần uống 1 viên, nếu vì phạm phòng thì dùng nước chè hoặc lá trầu không cũng được.

27. Hoắc loạn cấp tính
- Trần bì, Hoắc hương bằng nhau, Gừng sống 7 lát, nấu sôi vài dạo lấy Mộc hương, Trầm hương, cùng mài uống nóng.

28. Mọi chứng hoắc loạn chuyển gân nấc cụt
- Gạo tẻ chừng 1/2 chén tẩm nước giã nát. Khuấy, lắng bỏ bã, lấy 1/2 chén nước mài Đinh hương, Mộc hương, Cam thảo mà uống. Đó là dùng ý nghĩa sau ngọt trước đắng, trước ngọt sau đắng để chữa, nếu nấc cụt thì mài Thị đế uống 1 lần khỏi ngay.

29. Hoắc loạn quá nặng, tay chân giá lạnh, đã chết ngất nhưng tỉm còn ấm
- Muối bỏ vào rốn cho đầy, lấy Ngải nhung đặt lên cứu, cứu đến sống mới thôi.
- Vỏ xanh quả dừa, nấu nước uống hoặc dùng cùi dừa càng hay.
- Lá cây phèn đen 1 nắm, vò với nước và muối cho đặc, uống.
- Lá đào 3 nắm xắt nhỏ, nước 5 chén sắc còn 1 chén chia 2, uống.
- Cây vuốt hùm (thần sa lực) lấy 1 hột trong quả đốt tồn tính, tán, hòa nước uống.

30. Hoắc loạn thổ tả bụng đau thuốc vào thổ ra
- Dùng nước sôi 100°C pha với phân nửa nước lạnh mới múc hòa lẫn, uống (gọi là âm dương thủy).

31. Hoắc loạn thổ tả gần chết
- Trần bì, bỏ cùi trắng 5 đc - Hoắc hương 5 đc - nước 2 đc - sắc còn 1/2 uống nóng. Nếu không tỉnh, cạy răng đổ, lại lấy viên gạch đốt đỏ rưới giấm vào lấy khăn vải gói gạch chườm vào giữa tim, tỉnh ngay.
- Bột đậu xanh 2 lạng, đường kính 2 lạng, hòa với nước uống.
- Lá đậu xanh giã vắt lấy nước, gia chút giấm, uống.
- Ngải cứu 1 nắm, nước 3 thang sắc còn 1 thang uống.

32. Hoắc loạn thổ tả gần chết
- Hột cải, sao tán, hòa nước đắp lên rốn
- Giấm + muối, sắc uống
- Vỏ Thạch lựu, hột Bìm bìm trắng sắc uống
- Quả mơ muối sắc nước, uống ít một
- Gỗ mun hoa, tán 1 lần uống 2 đc với rượu
- Muội nồi - quả bồ hòn, đốt tồn tính, bằng nhau, nghiền nhỏ, 1 lần uống 1,5 đc.

33. Hoắc loạn thổ tả
- Hồ tiêu 4g, đậu xanh 14g đều tán, 1 lần dùng 1 đc, lấy Mộc qua sắc nước uống.
- Hồ tiêu, Đậu xanh, cỏ Tim bấc nam 7 nữ 9, nấu chín đun ra hòa với nước lạnh mỗi thứ 1/2 uống, gọi là nước âm dương.
- Muối độ 2 bát dùng lụa gói lại đặt lên ngực và bụng, lấy 1 âu đồng đựng than đỏ chườm, làm cho khí nóng thấu xuống thì lành, lại lấy muối rang đổ vào túi chườm sau lưng.
- Riềng ấm nướng cháy 1 lần dùng 1 lạng sắc với rượu sôi 3 – 4 dạo uống.
- Riềng ấm thái nhỏ 2 đc, Đại táo 1 quả, sắc để nguội uống, có phương bỏ Đại táo, thêm Hậu phác nướng, Nhục quế đều nhau.

34. Hoắc loạn thổ tả, phiền khát sắp chết
- Gạo tẻ tán 2 cáp, nước 1 bát gia 1 bát Trúc lịch, hòa uống hết.
- Cơm gạo tẻ, 1 cục bằng quả quít nướng vàng - Cát cánh 2 đc - lá tre 20 lá - gừng sống 5 miếng - sắc uống ấm.

35. Hoắc loạn khát quá chữa chậm thì chết
- Gạo lâu năm 3 cáp, nước 1 bát sắc uống.
- Đất vách đàng đông sắc uống.
- Lá lau 1 nắm sắc uống.
- Lá lau 5 đc - gạo nếp 2,5 đc, nước măng tre 1 đc đổ nước, sắc thêm nước gừng, mật, lại sắc sôi vài dạo thỉnh thoảng uống.
- Ngó sen giã vắt lấy nước 1/2 chén, gừng giã vắt lấy 1/2 chén, hòa uống.
- Gạo nếp 3 cáp, mật, nước 5 thang - sắc sôi uống.

36. Hoắc loạn khát quá
- Lá hòe 1 đc - lá dâu 1 đc, Cam thảo nướng 3 phân, sắc uống.
- Chè ngon tán 1 đc, sắc nước dùng Can khương tán 1 đc hòa uống.

37. Hoắc loạn trên không thổ, dưới không tả được toát mồ hôi lạnh sắp chết
- Muối 1 lạng - Gừng sống sao vàng 5 đc nước tiểu trẻ em 2 chén, sắc còn 1/2 uống ấm.
- Tóc 1 nắm bằng quả trứng đốt thành tro tán, muối 1 nhúm, sắc làm thang uống thổ được thì yên.
- Gừng sống 1 lạng, nước 2 thăng sắc còn 1/2 chia 2 uống.

38. Hoắc loạn không thổ tả
- Tỏi nhỏ 1 thăng, nước 3 thăng sắc còn 1 thăng uống ngay.
- Giấm 2 thăng uống.
- Tía tô tươi giã vắt nước uống, nếu lá khô thì sắc uống
- Thạch xương bồ, giã sống 1 lạng.
- Trần bì 5 đc, nước 1 bát sắc còn 1/2 chia 2 uống.
- Đậu đen 1 cáp nghiền sống hòa với nước 1 - 2 đc uống.

39. Hoắc loạn khí nóng nung nấu gân co rút không duỗi được
- Gừng sống 1 lạng giã nát, rượu 5 chén sắc uống.
- Rau nghễ 1 nắm, sắc nước rửa cho thớ thịt khai thông, khí dương tán ra thì lành.
- Bồ kết tán, 1 ít bằng hột đậu nhỏ thổi vào mũi để gây hắt hơi.

40. Truyền trị hoắc loạn thổ tả chuyển gân tay chân quyết lạnh ẩu thổ, hơi thở ngắn
- Lá Ké đầu ngựa tươi 1 nắm giã hòa với nước vắt lấy nước uống.
- 49 đồng tiền cổ, Mộc qua 1 lạng, Ô mai 5 quả, nước 2 bát sắc còn 1/2 uống ấm.

41. Hoắc loạn chuột rút trong bụng buồn phiền khó chịu
- Lá dâu 1 nắm sắc nước uống 1 - 2 lần lành ngay.
- Vải nhuộm chàm, 2 vuông, nấu với giấm, thừa lúc đang nóng xát vào chỗ đau, nguội thay miếng khác.
- Muội nồi 1 đc, tán hòa rượu uống.
- Gừng sống 1,5 lạng, giã rượu 1/2 thăng sắc sôi 2 - 3 dạo uống lại lấy gừng sống giã bôi vào chỗ đau.
- Tỏi nhỏ 1 lạng, muối 1 lạng, đều giã nắn thành bánh đắp lên rốn đặt Ngải cứu 7 lần là lành, lại lấy củ tỏi cắt 1 bên đem xát giữa rốn cho nóng lên là lành.

42. Hoắc loạn chuột rút
- Lá Trắc bá, giã nát, bọc lên trên bàn chân và nấu nước Trắc bá ngâm chân, hoặc dùng cành Trắc bá xắt nhỏ, nấu nước trước lấy khăn vải nhúng nước nóng buộc chân, sau lấy nước nóng giấp vào.
- Tỏi giã nát bôi lòng bàn chân.

43. Mùa hè bị hoắc loạn, hoặc chuột rút
- Đậu ván trắng (Bạch biển đậu) tán hòa giấm uống.
Không có hột thì lấy nắm lá rửa sạch giã sống hòa giấm vắt nước uống, có phương gia Hương nhu cũng bằng Đậu ván sắc còn 1/2 uống ấm.
- Lấy giấm tẩm bông cũ, bỏ vào nồi hông đến nóng đắp lên, nguội thì thay.

44. Hoắc loạn: Tên bài thuốc âm dương kỳ phương
- Đậu xanh 5 lạng (ngâm nước, đãi vỏ, để sống phơi khô).
- Đậu xanh 5 lạng (ngâm nước, đãi vỏ, nấu chín)
- Nhũ hương ð đc thái mỏng
- Mộc dược 5 đc thái mỏng
- Hạt tiêu sọ 3 đc để sống
Đậu xanh sống cùng tán với Nhũ hương, Mộc dược, Hồ tiêu – còn đậu xanh đã luộc chín đem luyện lẫn với thuốc bột, viên to bằng hạt ngô phơi khô đựng lọ nút kín.
Nước sôi để âm ấm.
Uống 20 viên 1 lần /ngày
Trẻ em 10 viên 1 lần /ngày
* Công dụng: Chữa các bệnh dịch tả, đau bụng đi cầu, cảm sốt nhức đầu, đau xương, đau mình, nôn ọe.
Đàn bà có thai không nên dùng và kiêng ăn các thứ khó tiêu.

45. Hoắc loạn thổ tả
- Khô bạch phàn 1 đc, hòa với nước đã sôi kỹ, cho uống
Hoặc
- Nhục đậu khấu tán bột, nước gừng làm thang uống 1 đc.

46. Hoắc loạn nôn mửa
- Nhân sâm 2 lạng, sắc lấy 1 chén nước, đập 1 quả trứng gà lấy lòng trắng rồi sắc lại với sâm, mài Sinh khương uống.

47. Hoắc loạn thổ tả sắp nguy
- Lá Hoắc hương - Trần bì mỗi vị 1/2 lạng, sắc uống, nếu phiền khát thì gia Cát căn, Cam thảo, lại lấy bột cải bẹ nghiền ra hòa với nước đổ lên rốn.

48. Hoắc loạn đầy trướng chưa thổ, hạ được
- Lá tía tô sống vắt lấy nước uống hoặc lá khô nấu uống
Hoặc
- Định hương, Sinh khương, Binh lang sắc với nước và uống với nước tiểu.
Hoặc
- Ba đậu 1 hột bỏ vỏ và lõi, nghiền với nước nóng uống mửa được hoặc đi cầu được thì đừng dùng nữa.

49. Hoắc loạn, buồn phiền trướng bụng
- Bán hạ chế, Quế đều nhau, tán bột. Tô diệp, Xương bồ sắc lên hòa thuốc bột uống.

50. Hoắc loạn chuyển gân, bụng trướng không thể tả được
- Chi tử 20 quả, tóc rối 1 nắm, đều đốt ra tro, nấu muối rượu làm thang hòa uống cho mửa.

51. Hoắc loạn chuyển gân
- Bồ kết tán bột lấy bằng hột đỗ thổi vào trong lỗ mũi cho hắt hơi thì yên.

52. Thổ tả
- Vỏ ổi giộp 1 lạng
- Lá Mã đề 1 lạng
- Vỏ quít sao 3 đc
- Hoắc hương 3 đc
- Gừng tươi 3 lát
Nóng nhiều gia Hoàng liên
Nếu không khỏi mà do tích trệ gia Đại hoàng, Chỉ xác.

53. Thổ tả
- Hoắc hương 1 lạng
- Ngải cứu 2 lạng
- Lá bìm bìm 2 lạng
- Bông Mã đề 1 lạng
- Búp tre 20g
- Vỏ ổi giộp 1 lạng
- Cây cải rừng 1,5 lạng sao vàng hạ thổ
- Tinh tre bỏ cái xanh, lấy cái trắng.
* Thuốc sắc đặc:
- Hoa hòe sao 1 lạng
- Sa nhân 1/2 lạng
- Vỏ quả lựu trắng 2 đc
Giã nhỏ, rây bột
Người lớn 2 thìa cafe
1 - 3 tuổi 1/2 thìa, 5 - 10 tuổi: 1 thìa (5 - 6 lần/ngày)
Khi uống, hòa thuốc bột với nước sắc mà uống.
* Xoa ở bụng:
- Quế chi - Đại hồi - Gừng tươi
Giã nhỏ hòa với rượu xoa vào bụng.
* Nếu không khỏi:
- Thanh đại 1 muỗng cà phê
- Muối trắng 1 ít
- Hành củ 1 củ
Giã đắp vào rốn để đi tiểu và khỏi nôn
- Tiêu chảy do hàn hay nhiệt đều dùng được.

54. Thổ tả
- Long não 5 đc
- Địa liền 5 đc sao tồn tính
- Gừng già 5 đc
- Phèn chua 2 lạng phi khô
- Hồ tiêu 5 lạng
Tán bột viên bằng hạt đậu đen uống 7 viên
Tả nhiệt: nóng gan bàn tay, bàn chân nóng
Bột sắn hòa nước (độ 1 đc bột) mà uống
Tả hàn: 4 bàn tay chân đều lạnh, uống nước gừng tươi hoặc rượu.
Nhức đầu: Uống với nước sắc ngải cứu, lấy rượu ngải cứu xoa thái dương
Sốt: Đốt lá ngải cứu hòa với nước, lấy nước trong làm thang
Kiêng: các thức ăn tanh, trứng, mỡ.

Thổ tả trẻ con

Trẻ bị thổ tả vì tạng phủ còn non, tà khí dễ xâm nhập, lại vì bú mớm không giờ giấc sinh ra. Đại để bệnh ở vị thì thổ, ở tỳ thì tả các chứng hậu có nhiệt, có hàn, có thực tích khác nhau.

Hàn tả là tỳ vị hư hàn, ăn uống không tiêu, nước tiểu trong mà tiêu phân xanh hoặc như bã rượu hoặc thổ hoặc tả tay chân quyết lạnh, hoặc kiêm ngoại cảm phong hàn nội thương ẩm thực trong người lúc nóng lúc mát.

Nhiệt tả là tỳ vị có thấp, tiêu phân vàng mà nước tiểu đỏ, miệng khô khát nước, tay chân ấm, hoặc thổ hoặc tả kiêm chứng trúng thử. Thực tế là do ăn uống không điều độ, ăn đồ sống lạnh quá nhiều, đình trệ ở tỳ vị, bụng trướng lên, thấy nóng trong bao tử, ợ hơi, nuốt chua, phân hôi như mùi trứng thối, phép chữa nên xét chọn phương.

55. Trẻ tiêu chảy không ngớt, bất cứ hàn nhiệt đều chữa được
- Hoài sơn sao, tán không kể nhiều ít trộn đều với cháo, ăn.
- Vỏ quả lựu nướng khô, sắc uống lúc đói.

56. Chuyên trị trẻ thổ tả
- Hạt cau khô 1 hạt, thái nhỏ, sao khô tán uống với nước cơm.
- Hoắc hương 1 đc, gừng sống 1 đc, Tinh tre 1 đc, Cam thảo ½ đc sắc uống ấm.
- Gạc hươu đẽo vụn 1 đc, tóc rối đốt thành than 1/2 đc, cùng tán hòa nước cơm uống ngày 3 lần.

57. Trẻ tả lỵ
- Tỏi giã nát, đắp vào 2 lòng bàn chân và rốn trẻ bị nhiệt tả.
- Hoàng bá, cạo vỏ sấy khô tán, viên với cháo bằng hạt đậu xanh, 1 lần uống 10 viên với nước cơm lúc đói.
- Lòng trắng trứng gà phết vào Hoàng bá nướng, tán, uống với nước cơm.

Trích từ sách: TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN 
của Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng 
do NXB Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh ấn hành


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.