Chuyển đến nội dung chính

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA BỆNH TRĨ

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA BỆNH TRĨ

CHỮA BỆNH TRĨ
40 Bài thuốc

Trĩ rò là chứng trong và ngoài hậu môn đều mọc mụn; nếu mọc mụn mà không vỡ mủ là “trĩ”; lở loét chảy máu mủ, chảy nước vàng gọi là “rò”. Cho nên trĩ thuộc chứng nhẹ, rò thuộc hư, chứng nặng. Nội kinh chia làm 5 chứng trĩ, tuy tên gọi khác nhau nhưng căn bản đều do ham ăn đồ gia vị, hoặc do rượu chè, dâm dục, lo nghĩ, uất nhiệt tích độc mà ra. Búi trĩ mọc kín trong hậu môn hoặc lồi ra ngoài; độc nặng thì búi to, độc nhẹ thì búi bé; to thì giống như cái mào gà, cái hoa sen, quả đào, bé thì giống như cái vú bò, quả tim gà, hay nhân hạt đào, hoặc chảy máu mủ, khi đi khi ngồi rất đau đớn khổ sở, lâu không khỏi sẽ sinh trùng.

Phép chữa không ngoài thanh nhiệt, lương huyết, sát trùng là chủ yếu.

1. Kinh trị 5 chứng trĩ
- Trĩ ngoại thì tiêu ra máu trước phân
- Trĩ nội thì trong phân có máu và lòi dom
- Thử trĩ thì quanh hậu môn mọc mụn như đuôi chuột
- Nuy sang là đầu hậu môn có lỗ thủng lở loét
- Trùng trĩ thì lở loét có trùng
- Hoa hòe, Kinh giới, Chỉ xác, lá Ngải cứu, đều 1 nắm, phèn chua bột 3 đc, dùng lá chuối bịt kín miệng nổi, nấu sôi 5 – 7 dạo nhắc xuống, chọc 1 lỗ nhỏ cho hơi bốc lên để xông vào hậu môn, đến lúc nước ấm thì rửa hậu môn, làm vài lần là khỏi.

2. Trĩ mới phát
- Rau sam luộc chín ăn nhiều, lại lấy nước luộc ấy xông rửa trĩ, trên dưới 1 tháng thu kín miệng, lành.

3. Trĩ rò, đã 30 năm cũng lành
- Tua sen 1,5 lạng, hạt Bìm bìm đen, tán, rây lấy lớp bột đầu 1,5 lạng.
- Đương quy 5 đc tán, 1 lần uống 2 đc với rượu vào lúc đói, 5 ngày là kiến hiệu, kiêng ăn đồ cay nóng.

4. Trĩ rò mới phát
- Kén tằm 2 - 3 cái, cắt móng tay đàn ông dồn đều trong kén, ngoài dùng tóc trẻ con buộc chặt, đốt tồn tính, tán, hòa với mật bôi vào chỗ lở.

5. Trường trĩ, khí trĩ, máu mủ dầm dề
- Xuyên sơn giáp 1 lạng, đốt tồn tính, Nhục đậu khấu 3 quả đều tán, 1 lần 3 đc uống với nước cơm lúc đói, người hư nhược thì thêm da nhím, đốt ra tro tán, bệnh lành mới thôi.
- Xuyên sơn giáp, lấy 3 hàng vảy ở chỗ cuống đuôi, đốt tán, cho ít Xạ hương, hòa nước trà uống, cặn thì bôi chỗ lở.

6. Trường trĩ ra máu lâu năm
- Cỏ Tháp bút 2 lạng, Chỉ xác 2 lạng, Can khương 1 lạng, Đại hoàng 2,5 lạng. Đều sao đem tán, 1 lần 2 đc uống với nước sôi.

7. Trĩ rò ra máu
- Ích mẫu tươi, giã vắt lấy nước cốt uống.
- Lá Ké đầu ngựa, hái ngày đoan ngọ, tán, 1 lần 1 đc uống với nước.
- Rơm lúa nếp, đốt ra tro, ngâm nước nóng rồi ngâm chỗ đau 5-3 lần là khỏi.
- Đậu đỏ 3 thăng, giấm 5 cân nấu chín, phơi khô, lại tẩm, phơi đến hết giấm mới thôi, tán, 1 lần 3 đc uống với rượu lúc đói.
- Củ Kim cang, củ Ráng bay, đều nhau, đốt qua, cạo bỏ vỏ ngoài, tán, 1 lần 3 đc uống với rượu lúc đói, đại bổ ích.
- Hành trắng 3 lạng, nấu lấy nước để xông, rửa, hoặc Chua me đất 1 nắm, nước 2 thăng, sắc còn phân nửa, ngày uống 3 lần.

8. Trĩ ra máu
- Lá hòe 1 cân, đồ chín, phơi khô, nấu uống thay nước chè, uống lâu khỏi bệnh, sáng mắt.

9. Trị 5 loại trĩ ra máu
- Mộc nhĩ cây dâu, nấu canh ăn no vào lúc đói, 3 ngày ăn 1 lần, đợi chỗ lở bỗng nhiên đau như chim mổ, lấy đậu đỏ 1 thăng giã lẫn nhau gói làm 2 túi đem nấu, thừa lúc nóng mà ngồi lên trên thì khỏi.
- Hoặc dùng Mộc nhĩ cây hòe tán, 1 lần 3 đc uống với rượu lúc đói, ngày 3 lần.

10. Chuyên trị 5 loại trĩ
- Mai ba ba, chữa mẫu trĩ: Hậu môn sưng mụn lòi ra có mủ như vú chuột.
- Da nhím, chữa tẩu trĩ; hậu môn sưng mụn lòi ra có máu mủ.
- Tổ ong, chữa huyết trĩ, đi ngoài phun ra máu tươi.
- Móng chân giò lợn đeo giá trái, chữa tráng trĩ: Hậu môn nổi mụn, lồi dom, tiêu ra máu.
Các vị trên đều bằng nhau, đốt ra tro, tán, trộn đều, nhưng tùy loại trĩ mà dùng gấp bội vị chủ dược, 1 lần 2 đc uống với nước giếng, có phương gia Xạ hương.

11. “Thử bao hạch” thịt đùn ra như hạch chuột, đau buốt mà chưa thành mủ
- Lá Trắc bá, giã tươi, đắp vào, lại dùng muối rang nóng bọc vải chườm, hơi thấu vào thì tiêu.
- Lá Trắc bá nấu với phèn chua phơi khô. Cước bẹ móc đốt ra tro, đều 1 lạng, hoa hòe sao cháy 2 lạng cùng tán, 1 lần 3 đc uống với rượu lúc đói.

12. Thử nhũ trĩ, thịt đùn như vú chuột
- Nghễ răm, lấy nhiều cho vào nổi đất, đổ nước vào, lá chuối bịt kín, nấu sôi rồi chọc thủng 1 lỗ xông vào mụn trĩ, lúc hết nóng, còn ấm, rửa.
- Trấp 1 quả to, bỏ ruột, Ba đậu 3 đc, bỏ vỏ, nghiền, nhét Ba đậu vào ruột trấp, buộc chặt lại, bỏ vào nồi đất, đổ giấm nấu cho cạn khô, lấy trấp phơi khô tán, 1 lần chút ít rắc lên giấy mà dán vào, 1 ngày thay 1 lần, lúc thay nấu nước hoa hòe rửa rồi dán, cho đến tiêu hết cục thịt. Nếu chỗ trĩ cứ chảy nước thì dùng nước miếng hòa thuốc đặt vào đầu miệng lở, sẽ phá vỡ, tiêu hết.

13. Trĩ đã hàng chục năm
Mật gấu, bôi vào là rất hay.

14. Trĩ đau nhức không chịu nổi
- Biển súc, giã vắt, lấy nước cốt 1 thăng, uống luôn, hoặc trộn với bột làm bánh ăn, ngày 3 lân.
- Quả trấp nướng chín thừa lúc đang nóng chườm vào, làm hết 7 quả là lành hoặc dùng Chỉ xác tán nấu với nước sôi 100 dạo xông, đợi nước ấm uống ngày 3 lần.
- Rau giấp cá 1 nắm, nấu nước xông và ngâm rửa, bã rịt.
- Lá hẹ giã nát, vắt thành bánh thường ngồi lên.
- Lá hẹ 1 nắm, dùng nồi đất nấu nước sôi lên, bỏ lá hẹ vào, lấy lá chuối bịt kín miệng, chọc 1 lỗ để xông, sau lấy mật ngỗng hòa với bột Bạch chỉ rịt vào là lành.
- Lấy trứng tằm đã nở con rồi, lấy nhiều, đốt ra tro, tán uống với rượu lúc đói, người khỏe 1 lần 2 - 3 đc, yếu thì 1 đc. Ngoài dùng nhện hùm 1 con, hoa Kim ngân 3 đc, đất thó bọc ngoài nướng đỏ suốt lấy ra để nguội, đập vỡ lấy 2 vị nghiền nhỏ.
- Lấy cọng Thài lài chấm nước thuốc bột nhét vào chỗ lở, đến lành thôi. Nếu chỗ lở đau lắm thì dùng quả cà giã nát hòa ít băng phiến, bôi vào, không có quả cà thì dùng rễ cà.
- Nghệ, tán, hòa nước, đắp, hoặc mài nghệ bôi.
- Hạt Giần sàng, nấu nước xông rửa.
- Hạt vừng, nấu nước rửa.
- Kinh giới, nấu nước rửa.
- Mật trăn mài tan trộn với dầu vừng bôi.
- Bí đao nấu nước thường rửa.
- Xương con lươn tán, đốt ra khói xông.
- Bầu đắng 3, 4 quả, dùi lỗ lớn bằng đầu ngón tay, bỏ vào nồi nấu chín, mỗi lần 1 quả. Lấy cái ống tre, 1 đầu cắm vào lỗ quả bầu, 1 đầu hướng vào hậu môn rồi đốt quả bầu mà xông, nguội lại đốt quả khác đến lành thì thôi.

15. Phong trĩ sưng đau, lúc phát lúc không
- Bạch cương tàm 2 lạng, bỏ đầu chân, rửa sạch, sao vàng, tán, Ô mai nấu chín bỏ hạt, giã nát, viên thuốc bằng hạt ngô đồng, 1 lần 5 viên, sắc 5 lát gừng với nước và mật uống lúc đói.

16. Chuyên trị 5 loại trĩ đau nhức
- Hạt mùi, sao thơm, tán, 1 lần 2 đc uống với rượu lúc đói.
- Hạt mùi. 1 cáp sao, Chỉ xác 3 lạng bỏ ruột sao. Bồ kết 1 quả bỏ vỏ, sao cùng tán, luyện mật viên bằng hạt ngô đồng 1 lần 30 - 40 viên uống với nước cơm lúc đói.

17. Trùng ăn loét lở ruột cùng thấy ruột lòi ra là chết
- Móng chân ngựa, đốt, tán, hòa mỡ lợn, gói lụa nhét chỗ lở ngày 3 lần.
- Móng đeo chân giò lợn, đốt tro tán, bôi.

18. Lòi dom, chảy nước, tức là có trùng
- Ngải cứu khô 1 nắm, gừng tươi 2 lát, sắc nước uống. Ngoài lại dùng gừng, lá ngải, rễ xoan nấu nước đậm, đang nóng xông rồi rửa 5 - 6 lần là khỏi.
- Lá đào 1 bó, giã nát, nấu xông chỗ đau, có trùng thì bò ra.
- Cổ nụ áo, hạt Cau rừng, rễ hoặc lá Thạch lựu, nước chảy về phía đông 1 bát, sắc uống, đợi trùng chết và chỗ lở kín miệng, thôi uống.
- Hạt Bìm bìm sao, tán bột, thịt lợn 4 lạng, nướng chín chấm thuốc ăn cho hết, lấy nước gạo trắng 3 bát uống dần, thấy trùng sắc trắng ra thì thôi. Kiêng rượu, dâm dục, không ăn đồ béo.

19. Trĩ có trùng, ngứa hoặc ra máu mủ
- Vỏ cây hòe, bỏ vỏ mỏng ngoài, lấy thứ trắng trong, sắc đặc, trước xông sau rửa, 1 thời gian lâu sẽ có trùng ra, làm vài lần là khỏi. Lại lấy vỏ trắng, cây hòe giã mềm như bông, đắp vào hậu môn.

20. Trĩ có trùng, mót rặn, không đại tiện được
- Hạt cau rừng tán 1 lần 2 đc uống với nước sôi lúc đói, kiến hiệu dần dần sẽ khỏi.

21. Chữa 5 chứng trĩ, các chứng rò
- Kim ngân hoa, hoặc cành lá rễ, không kể nhiều ít, cho vào nồi tẩm rượu sấy 1 đêm, lấy ra phơi khô tán. Lại dùng Kim ngân sắc nước hòa rượu, khuấy hồ viên bằng hạt ngô đồng, 1 lần 50 - 100 viên uống với rượu nhạt.
- Kim ngân hoa, tán, viên với hồ bằng hạt ngô đồng 1 lần 50 viên sắc nước, Chỉ xác uống lúc đói, tiêu ra máu thì sắc nước hạt hòe uống
- Thục địa 3 đc
- Kinh giới 2 đc
- Binh lang 2 đc
- Xuyên khung 3 đc
- Bạch thược 3 đc
- Phân tằm 2 đc
- Cam thảo 2 đc
- Đương quy 3 đc
Sắc uống.

22. Chữa 5 loại trĩ
- Kinh giới tán, tẩm nước với mật rịt chỗ đau, khô lại thay.

23. Bệnh rò có nhiều lỗ thông
Bán hạ, tán hòa nước đắp ngày 2 lần.

24. Trĩ rò, lở, chảy nước và lòi dom
- Tổ ong nhỏ (hình quả mướp) 1 cái, nếu không có tổ nhỏ thì lấy tổ lớn, nướng vàng, tán, rắc vào. Nếu chỗ lở mà khô thì dùng mỡ lợn mùa đông trộn thuốc thường bôi vào.
- Mai rùa, mai ba ba, phèn chua đều đốt tồn tính bằng nhau, tán rắc chỗ đau.

25. Lòi dom, tửu trĩ (vì uống rượu mà sinh trĩ)
- Xơ mướp, đốt tồn tính, tán, 1 lần 2 đc uống với rượu lúc đói.

26. Trĩ rò đuôi chuột (thử vĩ trĩ)
Băng phiến, Nhi trà, Hùng đởm, Xuyên tiêu, Chu sa, đều tán, hòa với mật lợn, bôi, rất công hiệu.

27. Trĩ hoa sen (Liên hoa trĩ)
- Bột Mã tiền 1,5 đc (theo người dịch thì nhiều quá, có lẽ 1,5 phân) Hùng hoàng 6 phân - rêu xanh trong nước, để lên hòn ngói sấy cho khô, đều tán, hòa với rượu, uống.

28. Mụn trĩ sưng đau
* Bài 1
- Đun nước Xà sàng tử để xông rồi rửa, phần xanh củ nghệ, tán, hòa với nước mật lợn, Viễn chí, độ 7 phân thì kiến hiệu.
* Bài 2
Đun nước Bồ kết mà xông, Bạch chỉ, Hồ hoàng liên, đều tán, hòa với mật ngỗng và rượu, bôi, buông tay đã thấy hiệu nghiệm.

29. Trường phong trĩ lậu thoát giang, tiêu ra máu, sắc vàng, lâu năm không khỏi
- Bạch truật tẩm, thổ sao 1 cân, tán, Địa hoàng 1/2 cân, hấp cơm cho chín, giã, nếu khô thì rưới thêm rượu vào luyện mật làm viên, uống với nước cơm, mỗi lần 10 viên.

30. Vì nghiện rượu thành trĩ đi cầu ra máu
- Hoàng liên đun với rượu cho khô, tán, hòa với hồ nấu bằng rượu mà viên, uống với nước sôi, mỗi lần 30 - 40 viên.

31. Vì nghiện rượu thành trĩ đi cầu ra máu
- Lá Thanh hao (dùng lá thì không dùng cành, dùng cành thì không dùng lá), tán, máu ra sau phân thì uống với nước và rượu.

32. Trĩ mào gà
* Bài 1
- Hoàng liên và đậu đỏ nhỏ, tán, rắc lên búi trĩ.
* Bài 2
- Thanh lục 5 phân, Hoàng đơn 1 đc, dầu lai (một thứ dầu thực vật, cây to, có nhiều ở khu vực IV) 3 đc, sáp ong 1 đc, luyện thành cao, dùng lá cành liễu non đun nước rửa

33. Những chứng trĩ rò
- Khổ sâm 5 cân, giấm 1 đấu, ngâm 3 - 4 ngày rồi uống.

34. Trĩ rò lâu không khỏi
- Phèn chua tán, lấy 1 con cá diếc mổ bỏ ruột, cho phèn chua vào đầy bụng cá, đốt tồn tính, tán, lấy lông gà thấm thuốc bôi vào.

35. Trĩ rò ra máu
- Bạch chỉ, tán, uống với nước cơm, mỗi lần 2 đc và sắc uống lấy nước để xông rửa.

36. Lâu trĩ phát ngứa
- Vôi để lâu đời, Xuyên ô đầu nướng, đều nhau, tán, viên với cơm, uống với nước sôi để nguội, mỗi lần 20 viên.
- Lấy Thủy ngân, Đại táo, đều 2 lạng, cùng nghiền nát bọc lại, nhét vào hạ bộ, hôm sau sẽ thấy trùng ra.

37. Trĩ rò bí kết
- Hoàng liên, Chỉ xác, đều nhau, tán, viên với hồ, uống với nước, khi đói, mỗi lần 50 viên, uống rồi thấy nhuận tràng.

38. Trĩ nội không ra
- Thái Ô đầu, tán, hòa với nước bọt, nhét vào hậu môn, trĩ lòi ra thì dùng thuốc khô trĩ tán mà bôi.

39. Một phương gia truyền chữa trĩ rò
- Hùng hoàng, xác rắn, tổ ong, con rết, đều đốt ra than, các vị bằng nhau và một ít Hồi hương, tán, hòa với mỡ gà, đổ vào chỗ đau.
- Lá rau dừa, hoa lá Thiên lý, lá Tiết dê, sắc uống.

40. Trĩ lậu, ở hậu môn thịt thối thành lỗ hoặc lòi ra như vú con chuột đau ngứa lắm, chảy nước luôn
- Xích thạch chi 1 đc; Đởm phàn, Hài nhi trà, Nhũ hương, Mộc dược, Thiên hoa phấn đều 5 phân; Băng phiến 3 phân; Xạ hương 2 phân, đều tán, để khô rắc vào chỗ đau, khỏi ngay.

Trích từ sách: TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN 
của Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng 
do NXB Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh ấn hành


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

CÂY RAU LÀM THUỐC - KHOAI NƯA

Khoai nưa hay Khoai na - Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.) Nicols, = A. campanulatus (Roxb.) Blume ex Decne, thuộc họ Ráy - Araceae. Cây thảo sống lâu năm, có thân củ nằm trong đất; củ hình bán cầu, rộng đến 20cm, mặt dưới lồi mang một số rễ phụ và có những nốt như củ khoai tây chung quanh có 3-5 mấu lồi; vỏ củ màu nâu, thịt trắng vàng và cứng. Lá mọc sau khi đã có hoa, thường chỉ có một lá có cuống cao tới 1,5m được gọi là dọc (cọng) dọc màu xanh sẫm có đốm bột; phiến chia làm 3 nom tựa như lá Ðu đủ. Cụm hoa gồm một mo to màu đỏ xanh có đốm trắng, mặt trong màu đỏ thẫm, bao lấy một bong mo là một trục mang phần hoa cái ở dưới, phần hoa đực ở trên. Khoai nưa phân bố ở Ấn độ, Myanma, Trung quốc, Việt nam, Campuchia, Malaixia, Inđônêxia, Philippin. Ở nước ta, khoai nưa mọc hoang rải rác ở khắp các vùng rừng núi, được bà con nhiều địa phương đem về trồng từ lâu đời ở trong vườn, quanh bờ ao, dọc hàng rào và trên các đồi để làm thức ăn cho người và gia súc, gặp nhiều ở các tỉnh Lạng s

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.