Chuyển đến nội dung chính

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA CHẢY MÁU

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA CHẢY MÁU

CHỮA CHẢY MÁU
29 Bài thuốc

1. Cầm máu vết thương
Hạt cau già 100g, lá trầu không 200g tán bột để rắc vết thương, vừa cầm máu vừa sát trùng.

2. Cầm máu vết thương
- A giao 6g
- Tóc đốt 2g
- Bách thảo sương (lọ nổi) 4g
- Lá thuốc bỏng 30g
- Cỏ nhọ nồi (cỏ mực) 30g
- Xơ mướp 30g
- Trắc bách diệp 30g
Đâm chung, thêm chút nước bằng số thuốc 180ml, vắt lấy nước uống, lá còn lại đắp chỗ vết thương, bó chặt băng lại.

3. Cầm máu cam
- Lá dành dành tươi 40g, muối ăn 2g: giã nhỏ với 40ml nước sôi để nguội, lấy nước cho uống.
- Hoa cây cỏ tranh 30g, lá Trắc bá (sao đen) 30g, sắc 600ml nước còn 300ml, chia 2 lần uống.

4. Chứng thổ huyết
- Tía tô rửa sạch, nấu kỹ, lọc bỏ bã, cô thành cao. Dâu đỏ sao chén tán luyện cao trên viên bằng hạt ngô đồng, dùng 30 – 50 viên chiêu với rượu uống thường xuyên.
- Lá Ngải cứu và Tinh tre đều hai phần, Can khương 1 phần, sao đen, sắc uống.

5. Miệng mũi ra máu
- Bồ hoàng tán 2 đc, 1 lần uống 1 - 2 đc với rượu nóng vào lúc đói hoặc uống với nước lạnh cũng hay.
- Đại giã thạch 1 lạng nung đỏ, tôi với giấm, nung và tôi 7 lần, tán bột, 1 lần uống 1 đc với nước nóng.
- Muội nồi tán, 1 lần uống 1 đc với nước sắc gạo nếp hoặc nước giếng ban mai.
- Muội nồi 5 đc, hoa hòe sao 2 lạng, đều tán, 1 lần uống 2 đc với nước sắc rễ cỏ tranh.

6. Miệng mũi máu ra như suối chảy vì rượu chè, sắc dục quá độ sinh ra
Kinh giới đốt ra tro tán, sắc nước Trần bì làm thang uống.

7. Bỗng nhiên thổ huyết một hai bãi
- Ngải nhung 1 nắm, nước 3 thăng sắc còn nửa uống.
- Ngải cứu đốt thành tro hòa nước uống 2 đc.
- Lá Ngải cứu tươi sắc rồi hòa với gừng uống.
- Ngó sen sao đều 7 cái, giã nát, ít mật, hai chén nước sắc còn nửa bỏ bã uống nóng.
- Vôi đá đặt trên con dao đốt cho đỏ tán hòa với nước giếng uống.
- Mai mực tán, 1 lần uống 2 đc nước cơm.

8. Thượng tiêu hỏa tức khạc ra máu hay ứ máu buồn phiền, khô ráo khát nước
Đậu đen 1 bát, Tía tô hai cành, lá hoa lý 2 cánh, Ô mai 2 quả, nước 3 bát sắc còn 8 phân, hòa với 1 chén nước gừng giã, vắt lấy nước chia uống dần sau bữa ăn.

9. Vấp ngã tổn thương gây thổ huyết:
Củ nghệ tán, uống với nước giếng 2 đc, nặng thì uống vài lần hoặc hòa với nước tiểu trẻ con uống càng hay.

10. Vì dạ dày lạnh không nạp huyết sinh mửa ào ào, tay chân quyết lạnh, chớ chữa bằng thuốc mát:
Gừng khô (sao đen) sắc rồi hòa nước tiểu trẻ em uống.

11. Phổi bị tổn thương sinh thổ huyết
Thạch xương bồ, phèn chua đều nhau, tán 1 lần uống 3 đc với nước mới múc, ngày 1 lần.

12. Khí uất sinh thổ huyết
Hương phụ mễ tán, 1 lần uống 2 đc với nước tiểu trẻ em khi đói.

13. Lao tâm mà thổ huyết
- Tim sen 7 cái, gạo nếp 21 hột, đều tán bột, uống với rượu dứt ngay.
- Lá sen non vắt nước uống.
- Lá sen khô, Bồ hoàn sống đều nhau, tán, 1 lần uống 3 đc với nước sắc vỏ rễ dâu.
- Lá sen tàn đốt tôn tính, tán, hòa nước uống 2 đc.
- Lá Trắc bá giã bỏ vào nước cơm, vắt lấy nước uống.
- Gạo lâu năm vo lấy nước một chén, ngày uống 3 lần.

14. Thổ huyết mãi không thôi
- Hoa hòe sao đen, uống 3 đc với nước ấm hoặc nước cơm nếp.
- Kinh giới cả rễ giã, vắt lấy nước cốt 1/2 chén uống.
- Củ cải sống giã nát, lấy nước 1 chén với tí muối uống công hiệu ngay. Không có củ cải thì lấy hột củ cải 1 phần, Tía tô 1/2 phần sắc uống.
- Gừng khô tán, uống 1 đc với nước tiểu trẻ em.
- Gừng sống, lá hẹ đều nhau, giã, vắt lấy nước, giã muội nồi uống với nước tiểu trẻ em.

15. Thổ huyết hạ huyết vì thất tình, tửu sắc, nội thương khí huyết vọng hành, miệng mũi đều ra máu, mạch tâm phế nhược, máu chảy vọt mạnh ra chỉ chốc lát là không cứu được
Nhân sâm sấy khô, Trắc bách diệp sao, Kinh giới tuệ đốt ra tro, mỗi vị 5 đc, tán bột, lấy 2 đc bột, hòa nước mới múc, nấu thành hồ loãng mà ăn, chỉ một bận là khỏi.

16. Hư hao thổ huyết quá nặng, người bệnh mỏi mệt phải bổ dưỡng để sinh âm
Nhân sâm 1 lạng, táo 5 quả sắc uống, hễ ngủ say là khỏi, sau này tùy nghi mà điều trị.

17. Huyết tràn vào dạ dày, mửa vọt ra mãi không thôi
Ngũ linh chỉ 1 lạng, Hoàng kỳ 1/2 lạng, tán bột, uống với nước mới múc, mỗi lần 2 đc.

18. Chảy máu cam không ngừng
- Rã Quán chúng tán 1 lạng, uống 1 đc với nước lạnh.
- Lá Bạc hà sắc uống, lại lấy lá tươi vò nát nhét vào mũi.
- Củ nghệ tán uống 2 đc với nước giếng, bệnh nặng chỉ uống 2 lần là khỏi.
- Hương nhu tán, 1 lần uống 1 đc với nước sôi.

19. Chảy máu cam không ngớt
- Lá Ngải cứu sắc uống và lấy Ngải cứu đốt ra tro thổi vào mũi.
- Thanh cao giã lấy nước uống, bã nhét vô mũi.
- 1 tờ giấy trắng gấp lại 4 - 5 lần, thấm nước ướt dán lên trán là khỏi ngay.
- Hột hoặc lá Mã đề giã lấy nước uống.
- Bồ hoàng, Thanh đại đều 1 đc uống với nước mới múc.
- Củ sắn dây tươi giã, vắt lấy nước uống, ngày 3 lần khỏi.
- Hột cải trắng tán, hòa với nước bôi lên đỉnh đầu và nơi lỗ thóp khỏi ngay.
- Tỏi giã nát đắp ở lòng bàn chân chảy máu mũi bên phải.
- Củ cải củ giã, vắt nước cốt 1/2 chén với ít rượu uống và lấy nước đó nhỏ vào mũi.
- Lá Trắc bá tán thổi vào mũi hoặc dùng sống giã nát nhét vào mũi.
- Hoa hòe, mai mực đều nhau, 1/2 sao 1/2 sống tán thổi vào mũi.
- Quả dành dành đốt thành tro, tán, thổi vào mũi.
- Nước mới múc 1 chén, mũi bên trái chảy máu thì rửa chân bên trái, bên phải thì rửa chân bên phải.

20. Chảy máu cam không thuốc gì cầm
Mạch môn (bỏ lõi) 4 lạng, tẩm nước rồi giã, vắt, lắng nước, cho cáp mật vào uống (1 cáp = 10 ml).

21. Chảy máu cam vì nhiệt
Củ hoa hiệu giã, vắt lấy nước cốt 1 bát, uống với mật ong.

22. Vừa chảy máu cam vừa thổ huyết
Muội nồi tán 2 đc uống với nước cháo nếp. Hoặc muội nồi 5 đc, hoa hòe 2 lạng tán, uống 2 đc với nước và chanh càng hay.

23. Chảy máu mũi đêm ngày không dứt, máu chảy thành vũng
Cỏ nhọ nồi giã nát đắp vào chót và trên trán.

24. Ho thổ ra máu, mệt, gầy, âm ỉ, tối thì nóng lạnh
Cháo nấu chín với nước Địa hoàng, ăn khi đói rất hay.

25. Thổ ra máu
Hoa hòe sao, tán 1 lần uống 3 đc với nước cơm nếp, nằm ngửa 1 chốc là khỏi.

26. Thổ ra máu, ho ra máu đều dùng được
Quả dành dành bỏ vỏ, hoa hòe, củ sắn dây đều bằng nhau, tán, 1 lần uống 2 đc với nước mới múc kèm tí muối, uống sau bữa ăn.

27. Phổi rách khạc ra máu
Hương phụ mễ tán, 1 lần uống 1 đc với nước cơm.

28. Phổi nóng khạc ra máu
Thanh đại 1 lạng, Hạnh nhân 1 lạng (trộn với bột Mẫu lệ sao qua) 2 vị đều nhau, tán, trộn với sáp vàng nấu chảy làm 30 cái bánh, mỗi lần dùng một bánh, lấy nửa quả hồng kẹp lại ngoài bọc giấy nướng thơm, cắn ăn với cháo ngày 3 lần rất hay.

29. Phổi bị tổn thương khạc ra máu
- Ý dĩ nhân tán, phổi lợn, nấu chín, xắt mỏng chấm ăn lúc đói đến khỏi thôi.
- Lá sen sấy khô tán, uống 2 đc với nước cơm, ngày 2 lần.
- Lá sen tàn, Bồ hóng, Rễ cỏ tranh (cả 3 thứ đã qua mùa sương) đều nhau, tán, 1 lần uống 2 đc với nước sắc rễ dâu.
- Hoa hòe sao tán, uống 3 đc với nước cơm nếp rồi nằm một lát thì lành.

Trích từ sách: TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN 
của Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng 
do NXB Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh ấn hành


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.