Chuyển đến nội dung chính

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA BỆNH Ở VÚ

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA BỆNH Ở VÚ

BỆNH Ở VÚ
32 Bài thuốc

Đau vú là sưng cứng mà đau nhiều vì vú thuộc kinh Dương minh vị, núm thuộc kinh Quyết âm can, chỉ vì bồi dưỡng thiếu thốn, hoặc tức giận xông lên hoặc lo nghĩ uất kết hoặc ăn uống đồ ngon quá nhiều, đều hay sinh đau. Nếu có thai mà đau vú thì gọi là “nội xung nhũ”, đã có con mà đau gọi là “ngoại xung nhũ”, hai chứng ấy vú đều sưng đau, nặng lắm thì nóng rét đữ đội, không kịp chữa thì vú nung mủ lở loét ra.

1. Truyền trị núm vú sưng đỏ, vú sưng đỏ muốn sinh ung nhọt
- Củ gai, giã nát rịt vào, ngày thay 4 - 5 lần đến tiêu hết thì thôi.

2. Vú mới phát ung, sưng cứng đau nhức, phát nóng rét mà chưa thành mủ
- Đầu chót gạc hươu 3 tấc chẻ ra đốt tồn tính, tán, 1 lần 3 đc uống với rượu sau khi ăn, nặng lắm uống 2 lần là tiêu, lại dùng gạc hươu mài nước đặc phết vào.

3. Truyền trị vú sưng đau đo kinh mạch bế tắc, sữa không thông, khí độc tụ lại
Phương nặng về dược lực, có thể dùng huyết hành khí, uống vào tiêu được chất ứ độc, ngoài ra thông tia sữa.
- Hột vông vang sao thơm, Sa nhân 2 vị bằng nhau, tán 1 lần 2 đc uống với rượu sau bữa ăn.

4. Truyền trị vú hơi sưng, đau phát nóng rét nhưng chưa thành mủ
- Nõn dâu non 1 nắm, giã nát rịt vào, lấy giấy nhúng nước đắp ngoài, khô lại thay.
- Cao da trâu, cho giấm vào chút ít nấu chảy tan thành thuốc cao, dán vào. Trong dùng củ gấu tán, 1 lần 2 đc uống với nước nóng, sau bữa ăn.
- Củ sắn đây, sắc nước 1 thăng, uống.
- Dùng 1 cái bát, xếp 4 sợi bấc to thành chữ thập trong bát, để đầu bấc lòi ra ngoài miệng bát 1 tấc, lại dùng giấy dày cắt tròn thấm nước ướt, đặt vào trong miệng bát trên sợi tim bấc, mép giấy cùng miệng bát bằng nhau, mang bát áp lên vú sưng cho đầu bấc lòi ra ngoài, dùng ngải nhung 1 cục to để lên trôn bát, thắp lửa đốt ngải nhung cho cháy, hết lại thêm cục khác, đốt cho đến khi miệng bát chảy nước mồ hôi thì đỡ đau, đốt 1 lần là tiêu hết, nếu nặng lắm hôm sau lại đốt.

5. Vú sinh ung sưng đau
- Cỏ roi ngựa 1 nắm, gừng sống 1 củ, giã nát cho vào 2 chén rượu vắt lấy nước uống, bã đắp.
- Lá phù dung giã nát, hòa với muối và giấm đắp.
- Nam tinh, mài với nước nóng cho đặc, dùng lông gà chấm thuốc phết vào.

6. Vú sinh ung cứng, đỏ tím chữa đủ thứ không khỏi
- Rễ cây liễu giã nát, sao nóng, bọc vải, chườm, nguội lại thay, 1 đêm là tiêu.
- Lá Tía tô nấu nước uống và giã sống đắp.

7. Vú sinh ung chưa làm mủ thì tiêu, có mủ thì vỡ, hết đau nhức
- Vỏ quít, bỏ cùi trắng, phơi khô, sao với bột gạo hơi vàng, tán, uống mỗi lần 2 đc với tí Xạ hương và rượu.

8. Vú sưng đau, không kể nội xung hay ngoại xung
- Hành tươi 1 nắm, giã nát, nặn thành bánh, đắp lên vú, dùng cái lọ sành trong có đựng than đỏ đặt trên bánh hành chườm, mồ hôi ra là hết sưng lẫn đau. Trong uống nước sắc tía tô, ngày 2 lần.

9. Vú sưng đau, không kể nội hay ngoại xung
- Rễ hoa hiên giã nát, hòa rượu uống, bã đắp.
- Dây đau xương, giã nát, hòa giấm ngon với tí muối xào nóng đắp.

10. Sau sanh sữa không thông
- Ích mẫu, nấu thành cao, hòa giấm phết vào, nếu không có cao dùng lá giã nát, hòa giấm với muối rịt vào.
- Tổ ong, đốt ra tro, 1 lần 2 đc, nước 1/2 bát, sắc lấy 1/2, bỏ bã, uống nóng.
- Lá cải, giã nát, đắp.
- Lá thông, giã nát với giấm và muối hòa thuốc đắp.

11. Sau sanh vì con bú hà hơi vào mà vú sinh ung
- Bồ kết 10 quả, giã nát, rượu 1 bát, khuấy đều, lấy nước cho Phác tiêu vào 5 đc nấu thành cao xức vào.

12. Truyền trị vú sưng lâu ngày đã mưng mủ mà không vỡ miệng
- Bồ kết bỏ vỏ, tẩm mật, nướng, tán, 1 lần 1 đc uống với rượu sau bữa ăn.

13. Núm vú nứt nẻ
- Quả cà non, hái sau khi có sương thì tốt, bổ đôi phơi râm tán, 1 lần 1 - 2 đc uống với rượu sau bữa ăn; chất trắng trong cứt gà, sao vàng, tán, 1 lần 1 đc, với rượu, 3 lần là khỏi.

14. Nhũ nham, lúc mới nổi cục như quân cờ, không đau không đỏ, không nhức, không ngứa, 3 hoặc 5 - 7 năm sau mới đau dần, rồi mưng mủ lở loét giống cái hang hốc, nước mủ dầm dề ngực sườn đau nhức, là đã khó chữa, là vì buồn bực tức giận có việc không thỏa mãn lâu ngày độc tích trong tim không phát tiết ra được, cách chữa cốt yếu là lúc ban đầu, nếu đã vỡ mủ thì 10 người chết hết 9
- Thanh bì 4 đc, nước 1,5 bát, sắc lấy 1 bát, uống dần, ngày uống 1 lần, hoặc tán bột hòa với rượu uống.
- Gạc hươu, mài rượu uống và bôi vào chỗ đau.
- Xuyên sơn giáp, nướng khô, tán, 1 lần 1 đc, uống với rượu sau bữa ăn, ngày 2 lần.
- Hành cả lá và rễ, giã nát, nặn thành bánh, đắp chỗ đau, dùng cái lọ sành trong có để thanh sắt đỏ chườm lên bánh hành, cho ngấm hơi nóng, ra mồ hôi là khỏi.

15. Nhọt vú mới mọc
- Bạch chỉ, Bối mẫu đều 2 đc, Thạch cao nung đỏ, đều tán, uống với rượu ấm.
- Lá ô rô giã nhỏ cho nước tiểu trẻ con vào mà đổ rất hay.

16. Nhọt ở vú mới mọc đau và ngứa
- 1 cân nước hành, uống hết, ngoài dùng Đan sâm, Bạch chỉ, Thược dược giã nhỏ, tẩm giấm 1 đêm, vắt lấy nước, cô thành cao mà rịt.

17. Nhọt vú mới tấy lên, rắn, màu tía
- Lấy vỏ rễ cây liễu, giã nát xào nóng, bọc vào lụa mà chườm nguội lại thay.

18. Nhọt vú sưng thũng
- Bồ công anh 1 lạng, dây Kim ngân 2 lạng, 1 lít rượu, giã vắt lấy nước, uống trước khi ăn, ngoài lấy bã ấy mà rịt.

19. Nhọt vú do sữa không thông, trong kết lại mà sưng lên
- Tổ ong đốt ra than, nghiền nhỏ, uống với nước ấm, mỗi lần 2 đc, ngoài lấy bồ hóng hòa với giấm mà bôi.

20. Vú sưng, đau, tức sữa và các chứng đinh sưng
- Lá Tía tô, Cam thảo, dây Kim ngân, Bồ công anh, sắc với nước uống, ngoài lại giã nát mà rịt thì tiêu ngay.

21. Sưng vú rắn như đá, mọc ra thì phát phiền khát
- Ốc thạch (nghi là con ốc đá, chứ Hoạt thạch thì không làm sao vắt lấy nước được) 5 lạng, nước 1 chén, giã vắt lấy nước đặc, uống cho hết.
- Xuyên sơn giáp nướng khô, tán nhỏ, Mộc thông đều 1 lạng, tán uống với rượu, mỗi lần 2 đc, đây là chữa chứng suy nhũ.

22. Nhũ huyên: 2 vú thốt nhiên dài ra mà nhỏ, như ruột thòng xuống quá bụng đau không chịu được, nguy trong chốc lát
- Khung quy đều 1 cân, dùng 1/2 giã đập dập, sắc với nước, uống không cứ lúc nào, còn 1/2 giã ra đốt dưới giường, người bệnh hớp lấy khói nếu thuốc hết mà chưa khỏi, lại làm 1 liều nữa. Lại lấy hột Thầu dầu tía giã mà rịt vào đỉnh đầu.

23. Vì nịt vú mà thành ung nhọt đau
- Cây ích mẫu sống giã mà đổ vào vú.

24. Suy nhũ sưng rắn đau nhức nhẹ thì gọi là đổ nhũ, nặng thì gọi là ung nhũ
- Trần bì, Qua lâu căn, đều 1 lạng, Nhũ hương, Cam thảo đều 1 đc hoặc sắc hoặc tán, uống với rượu.

25. Đầu vú nứt nẻ
- Yên chi, Cáp phấn, đều tán nhỏ mà rắc vào.
- Đinh hương tán mà rắc.

26. Vú sưng không tan
- Cây thuốc ca, Xích tiểu đậu, 2 thứ đều nhau, tán hòa với rượu mà đổ.
- Củ Thiên môn đông sắc lấy nước uống, còn bã lấy lá hẹ giã với muối mà bôi.

27. Nhũ nham (vú sưng, nổi hạch, lồi lõm như núi đá lởm chởm)
- Đậu đen 2 cân bỏ vào nồi đồng nấu lấy nước uống.

28. Mùa thu lạnh vú nứt nẻ ra
- Quả cà thái ra phơi râm, đốt tôn tính, nghiền nhỏ, hòa với nước uống.

29. Nhũ nham, vì lo uất đã lâu, mà trong vú kết lại thành hột, nên phải chữa ngay, nếu không thấy đau ngứa đã lâu thì sẽ không chữa được
- Thanh bì 4 đc, Xuyên sơn giáp nướng, đều tán, uống với rượu mỗi lần 1 thìa, ngoài lấy lược mà chải.
- Bồ kết đốt ra than, Cáp phấn, 2 thứ đều nhau, 7 hòn phân chuột nhét vào thịt quả đại táo, đốt tồn tính, đều tán, uống với rượu ấm.

30. Vú rắn như đá, mà khát
- Lấy nước ngâm quả trứng gà, rồi uống lòng trắng sống, ngoài lấy nước tiểu ngựa bạch mà đổ vào chỗ đau.

31. Nhũ suy sưng tấy lên mà đau
- Cao lấy tinh sừng hươu sao vàng, tán, uống với rượu, mỗi lần 2 đc, ngoài lấy lược mà chải.

32. Vú rắn như đá, phát ra buồn tức
- Mang tiêu hòa với mật ong uống ngày 3 lần.

Trích từ sách: TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN 
của Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng 
do NXB Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh ấn hành


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

CÂY RAU LÀM THUỐC - KHOAI NƯA

Khoai nưa hay Khoai na - Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.) Nicols, = A. campanulatus (Roxb.) Blume ex Decne, thuộc họ Ráy - Araceae. Cây thảo sống lâu năm, có thân củ nằm trong đất; củ hình bán cầu, rộng đến 20cm, mặt dưới lồi mang một số rễ phụ và có những nốt như củ khoai tây chung quanh có 3-5 mấu lồi; vỏ củ màu nâu, thịt trắng vàng và cứng. Lá mọc sau khi đã có hoa, thường chỉ có một lá có cuống cao tới 1,5m được gọi là dọc (cọng) dọc màu xanh sẫm có đốm bột; phiến chia làm 3 nom tựa như lá Ðu đủ. Cụm hoa gồm một mo to màu đỏ xanh có đốm trắng, mặt trong màu đỏ thẫm, bao lấy một bong mo là một trục mang phần hoa cái ở dưới, phần hoa đực ở trên. Khoai nưa phân bố ở Ấn độ, Myanma, Trung quốc, Việt nam, Campuchia, Malaixia, Inđônêxia, Philippin. Ở nước ta, khoai nưa mọc hoang rải rác ở khắp các vùng rừng núi, được bà con nhiều địa phương đem về trồng từ lâu đời ở trong vườn, quanh bờ ao, dọc hàng rào và trên các đồi để làm thức ăn cho người và gia súc, gặp nhiều ở các tỉnh Lạng s

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.