Chuyển đến nội dung chính

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA BỆNH Ở ÂM HỘ

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA BỆNH Ở ÂM HỘ

BỆNH Ở ÂM HỘ
06 Bài thuốc

1. Nếu âm hộ đau mà sưng
- Giã nát rau sam mà đắp.
- Giã nát mầm non cây bông cúc, nấu nước xông, rồi rửa chỗ sưng.

2. Âm hộ ngứa
- Do có huyết trắng lâu ngày, không giữ vệ sinh kỹ, nên năng tắm rửa hàng ngày, mặc quần áo khô, sạch.
- Lấy nước tiểu của mình mà rửa.
- Nặn nước chanh pha 1 chỉ phấn chì mà thoa nơi đó.
- Nấu nghệ, gừng, trầu lương, phèn chua, thuốc rê với nước sôi và tí rượu mà rửa.

3. Bị ra máu, có huyết trắng, bụng đau lâm râm
- Cỏ mực để nguyên 1 nắm
- Nếp lức 9 hạt
- Dừa xiêm lửa 1 trái
Ba món để chung sắc uống lúc 8 - 9 giờ tối, uống xong nằm nghỉ, hơi nóng sẽ ra ở cửa mình, lỗ tai và khắp mình.

4. Vì lúc sanh, rặn quá nhiều làm tuôn cả ruột
* Bài 1:
- Ðu đủ tía 14 hột
- Giã nhuyễn, đặt lên đỉnh đầu, thấy kéo lên rồi gỡ thuốc ra, rửa thật sạch chỗ đặt lên đỉnh đầu.
* Bài 2:
- Cật bần non 9 khúc
- Đầu cua đinh 1 cái
- Vỏ con sam 1 cái
Để trên mẻ lửa, úp kín chừa một lỗ, hơi lên mà xông cho rút lên.
* Bài 3:
- Đu đủ tía (bỏ vỏ) 30 hột
- Tỏi 2 tép
- Máu đuôi lươn 9 giọt
- Thuốc cứu tươi 9 đọt
Đâm chung cho nhuyễn, đắp trên đỉnh đầu và chấn thủy.
* Chú ý: Dom sẽ rút lên mau lắm, gỡ thuốc ra và rửa thật sạch 2 nơi đã đặt thuốc.

5. Đau dây chằng tử cung
* Bài 1:
- Gốc cây rau má 1 mớ
- Phơi khô, sao khử thổ, nấu với nước dừa nạo mà uống vài lần.
* Bài 2:
- Dùng bia lạnh rửa âm hộ 2 - 3 lần trong ngày, và dùng dầu khuynh diệp thoa, vuốt mà đưa lên dần.
- Phèn, lá trầu, thuốc xỉa, ít muối nấu mà xông.
* Bài 3:
- Lá lốt 1 tô
- Thăng ma 1 ít
- Sắc 3 chén còn 8 phân, uống.
* Bài 4:
- Rễ lòng thòng của cây gừa (sao khử thổ) 1 mớ.
- Sắc 3 chén còn 8 phân, xong thêm vô 3 lá vàng bạc, uống 3 - 5 lần là hết.

6. Sa tử cung, sót nhau
* Thuốc xông:
- Đầu cua đinh rùa vàng (tán nhỏ) 1 cái
- Rau đừa tía (phơi héo) 1 nắm
- Tóc rối 1 nùi
Ba món để trên mẻ lửa mà xông khói nơi đó.
* Bài 1:
- Muối hột 1 chén
- Cám gạo 2 chén
Muối rang cho nổ, để cám vô rang cho có khói, bỏ cám lấy muối, trút muối ra khăn, gói vuông lại, đặt gối ngang lưng quần mà nằm lên (nóng quá thì lót thêm khăn) nằm đến thật nguội mới thôi.
* Bài 2:
- Đâm 1 củ gừng sống lấy nước quậy với 1 chén bột nếp mà làm hồ. Phết hồ đó lên giấy bạch mà dán trùm từ trên rốn xuống ba đì (thấy rốn ngứa quá thì gỡ ra).
- Mỗi đêm nằm cám muối (bài 1) và dán thuốc hồ (bài 2)
- Làm chừng 3 - 4 lần thì tử cung sẽ rút lên.
* Một số bài thuốc khác:
* Bài 1: Lấy 9 lá lốt, hơ nóng từng cái rồi ấn vào, lá này khô đến lá kia.
* Bài 2: Lá vông giã nát, xào nóng, bọc vải, cho vào âm đạo.
* Bài 3: Kê nội kim mới bóc ra lau sạch không rửa rồi dán bề trong vào cổ tử cung.
* Bài 4: Lá cây Chỉ thiên, lá Bồ công anh, hạt Thầu đầu tía, lá Vông nem, các vị đều bằng nhau, giã nhỏ đắp lên đỉnh đầu.
Các vị uống trong: Ích mẫu, Khổ sâm, Thăng ma, vỏ cây Chân chim, lá Ngải cứu, lá Vông, mỗi vị dùng 5 đc, sao vàng, sắc uống.

Trích từ sách: TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN 
của Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng 
do NXB Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh ấn hành


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.